Saturday, October 20, 2007

Trịnh Hữu Tuệ vs. Cao Xuân Hạo

Nhân việc bạn Hana và bạn Quốc Anh hỏi về cuộc tranh luận giữa Cao Xuân Hạo và Trịnh Hữu Tuệ về ngôn ngữ học, tớ copy luôn ở đây cho các bạn nào ở Việt Nam không vào được talawas đọc.

Bài 1:

Trịnh Hữu Tuệ

Một cách nhìn tiếng Việt ‚quái gở’?

0.

Mục đích chính của tôi trong bài này là làm một người ‚ngoại đạo’ hiểu hơn một chút về một trong những cách tiếp cận của ngôn ngữ học hiện đại, tức là cách tiếp cận của trường phái ngữ pháp tạo sinh, khởi xướng bởi Noam Chomsky từ những năm 50 và từ đó đến nay đã trở thành gần như một quan niệm tiêu chuẩn về ngôn ngữ mặc dù số người đi theo nó không phải là đa số. Trước hết tôi sẽ nói qua về lý thuyết ngôn ngữ nói chung với tư cách là một lý thuyết khoa học, được xây dựng trên những cách thức và theo đuổi những mục đích bình thường của một khoa học tự nhiên. Sau đó tôi sẽ phân tích một hiện tượng cụ thể trong ngôn ngữ, hiện tượng đề hóa trong tiếng Việt. Xin lưu ý là phân tích của tôi không có gì mới. Nó chỉ có mục đích duy nhất là minh họa một cách cụ thể hơn những gì nói ở phần một. Tôi sẽ đơn giản hóa tối đa những phần động đến lý thuyết chuyên môn, vì vậy nên chắc chắn là sẽ không thể tránh khỏi có những thiếu sót mà tôi hy vọng sẽ bù đắp được phần nào trong phần chú thích.


1.

Những ai đã từng nghe nói về ngôn ngữ học hiện đại đều biết cái tên Noam Chomsky, đều biết đến khái niệm cấu trúc sâu (deep structure), cấu trúc bề mặt (surface structure) và nhất là chuyển vị (movement). Nhiều người còn biết rằng cấu trúc sâu liên quan đến những gì ta nghĩ, cấu trúc bề mặt liên quan đến những gì ta nói, và chuyển vị là thao tác dẫn ta đi từ cấu trúc sâu đến cấu trúc bề mặt.

Thực ra cấu trúc sâu không có gì là sâu sắc cả. Nó chỉ là một phương tiện lý thuyết để giải quyết một số những vấn đề gặp phải trong việc mô tả kiến thức ngôn ngữ mà thôi. Ví dụ cho một câu hỏi như who did John see. Khi nghe câu này, ta biết rằng who là đối tượng của see. Ngoài ra, ta còn biết rằng trong tiếng Anh, đối tượng của động từ thường đứng sau động từ, ví dụ ta biết rằng trong câu John saw Mary, Mary là đối tượng của hành động nhìn, là người bị nhìn. Hai cách giải quyết vấn đề có vẻ hợp lý nhất là (a) nói rằng đối tượng có thể đứng sau hoặc đứng trước động từ, và (b) nói rằng đối tượng luôn luôn đứng sau động từ nhưng trong một vài trường hợp nó được phát âm ở chỗ khác. [1]

Nếu chúng ta chọn (a), chúng ta sẽ mô tả who did John see và John saw Mary bằng hai quy luật khác nhau. Nếu chọn (b), chúng ta sẽ mô tả cả hai câu bằng một quy luật và ngoài ra, đối với câu who did John see, chúng ta sẽ áp dụng một phép chuyển hóa để đưa đối tượng của động từ lên đầu câu. Nếu chọn (a), chúng ta sẽ có hai cấu trúc A và B hoàn toàn không liên quan gì đến nhau. Nếu chọn (b), chúng ta sẽ có một cấu trúc A và một cấu trúc A', và A' chính là A sau khi qua quá trình chuyển hóa. Chomsky đã chọn (b). Có thể thấy rằng nếu theo cách giải quyết (b), câu who did John see, khi chưa qua chuyển hóa, có một cấu trúc giống với câu John saw Mary. Cấu trúc này là cấu trúc sâu, và thao tác chuyển hóa ở đây được gọi là chuyển vị (movement). [2]

Về mặt logic thì không có cơ sở gì để nói rằng (a) hơn hay (b) hơn. Chomsky đã chọn (b) thuần túy vì ông thấy rằng làm như vậy, chúng ta mô tả được kiến thức ngữ pháp chính xác hơn, kinh tế hơn, và hợp với linh cảm của người sử dụng ngôn ngữ hơn. [3]

Những khái niệm cấu trúc sâu, cấu trúc bề mặt, hay chuyển vị, là những khái niệm lý thuyết. Ta chỉ có thể hiểu được chúng, cũng như nói về chúng, trong khuôn khổ của cái lý thuyết trong đó chúng hình thành và đóng một vai trò nhất định. Cũng như khái niệm sức hút chỉ có nghĩa trong khuôn khổ vật lý Newton. Nếu tự nhiên nói trái đất hút mặt trăng thì nghe sẽ rất giống già làng. Có thể coi 'chuyển vị' hay 'sức hút' là những ẩn dụ, những cách diễn đạt tiện lợi nhất cho việc mô tả hay giải thích những hiện tượng nhất định, và một lý thuyết khoa học là một câu chuyện. Ta chỉ hiểu được ẩn dụ khi ta hiểu câu chuyện, hiểu ý của tác giả mà thôi.

Trong khoa học tự nhiên, quá trình bí hiểm nhất là quá trình đi từ các dữ liệu quan sát đến một lý thuyết mô tả và giải thích được chúng. Quá trình này được một số các nhà triết học gọi là context of discovery. Theo họ, context of discovery không thể trở thành mục tiêu tìm hiểu của triết học được bởi đó là một quá trình tâm lý chủ quan không tuân theo một quy luật nhất định nào. [4]
Thật vậy, nếu có thể có những quy luật giúp ta đi từ dữ liệu quan sát đến lý thuyết thì ai cũng có thể trở thành một Einstein nếu chịu khó vào phòng thí nghiệm đọc các số đo. Câu hỏi của khoa học tự nhiên không phải là 'làm thế nào để đi từ dữ liệu D đến một lý thuyết mô tả và giải thích D', mà là 'lý thuyết nào mô tả và giải thích D hay hơn.' Nhà khoa học tự nhiên không có nhiệm vụ nói anh ta đi đến lý thuyết ra sao, anh ta chỉ có nhiệm vụ nói lý thuyết của anh ta mô tả và giải thích các hiện tượng ra sao và nó tốt hơ
n các lý thuyết khác ở điểm nào.


Những điều này vẫn luôn được coi là tất nhiên từ thuở khai sinh của khoa học tự nhiên. Nhưng trong ngôn ngữ học thì lại có một giai đoạn trong đó tình hình khác hẳn. [5] Trong một thời gian, những nhà ngôn ngữ học nổi tiếng nhất đặt mục tiêu là tìm ra những quy tắc máy móc giúp ta đi từ những dữ liệu quan sát được trong một ngôn ngữ L đến một lý thuyết về L. Những quy tắc này sau được gọi là discovery procedures. Những discovery procedures gồm những phương pháp, hay những trắc nghiệm, giúp ta tìm ra được cấu trúc các câu và cuối cùng là cấu trúc của một tập hợp các câu, i.e. một ngôn ngữ. Nhà ngôn ngữ học có nhiệm vụ cho thấy tại sao anh lại gán cho một chuỗi âm thanh S cấu trúc A, tức là anh phải cho biết anh đã dùng những trắc nghiệm gì đối với S để đi được đến A.

Theo tôi, đóng góp lớn nhất của Chomsky là làm được (phần lớn) các nhà nghiên cứu ngôn ngữ quay trở lại với cách suy nghĩ bình thường của một người làm khoa học. Trong Chomsky (1957), ông lập luận rằng discovery procedures là một mục tiêu quá cao đối với một môn khoa học, và không có lý do gì để nghĩ ngôn ngữ học là một ngoại lệ. [6] Các nhà ngôn ngữ học không nên hỏi 'làm thế nào để tìm ra cấu trúc của câu S'; họ chỉ nên hỏi 'dùng cấu trúc nào cho S thì mô tả và giải thích được các hiện tượng hay hơn.' Khả năng giải thích các hiện tượng của cách phân tích A đối với câu S biện minh cho việc coi A đúng là cấu trúc của S. Đây là một điểm tuy đơn giản nhưng hết sức quan trọng. Nếu không hiểu nó thì sẽ không thể hiểu được ngôn ngữ học hiện đại.

Một điểm quan trọng nữa là sự phân biệt giữa (i) những gì người bản ngữ (native speakers) nói và (ii) những gì người bản ngữ biết là có thể nói được. Tuy (i) rất quan trọng, nhưng (ii) còn quan trọng hơn, vì nó mới là mục tiêu cuối cùng của ngôn ngữ học. (i) giúp chúng ta đoán ra (ii), nhưng để đoán ra (ii) nhiều khi ta phải cho người bản ngữ đối mặt với những câu họ chưa bao giờ nghe hoặc nói trong đời nhưng lại có khả năng đưa ra nhận xét về chúng. Đây là đặc điểm bình thường nhất của cái gọi là thí nghiệm. Một nhà vật lý sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện ra vườn quan sát lá rơi và hy vọng nhìn ra được quy luật về gia tốc rơi tự do. Những hiện tượng thường ngày bị ảnh hưởng của quá nhiều yếu tố mà ta không biết nên nhiều lúc ta phải tạo ra một môi trường nhân tạo không thể có được trong tự nhiên để tìm ra 'sự thật'. Nhiều người không hiểu cái điểm hết sức đơn giản này nên thường phê bình Chomsky là hay dùng những câu 'chẳng nghe ai nói bao giờ', ví dụ như the teachers asked what attitudes about each other the students had. Họ không hiểu rằng những nhận xét của người bản ngữ về những câu như thế này có thể là cái chìa khóa để tìm ra những quy luật sâu sắc của ngôn ngữ.


2.

Sau phần giới thiệu khá dài dòng ở trên, tôi nghĩ chúng ta đã có đủ 'cơ bản' để đi vào vấn đề chính mang tính thuần túy ngôn ngữ học hơn một chút. Trong tiếng Việt, ta có những kiểu câu sau đây.

(1)

  1. cơm thì tôi ăn
  2. về ngôn ngữ học thì tôi đã tìm được hai quyển sách của Cao Xuân Hạo


Ta có thể thấy là trong các câu trên, có một thành phần trong câu được coi là đề của câu, phần còn lại được coi là thuyết. Đề đứng ở đầu câu và được nối với thuyết bằng từ thì. Câu hỏi là liệu ta có nên dùng khái niệm chuyển vị để phân tích các câu trong (1) không. Đối với câu hỏi này, Cao Xuân Hạo (1986) đã có một câu trả lời dứt khoát:

‚[theo] các nhà ngữ pháp tạo sinh [thì] Đề [...] là kết quả của những thao tác chuyển hóa [...] gọi là ‚chuyển vị’ (movement) [...] Đối với một ngôn ngữ như tiếng Anh [...] quan niệm Đề như vậy không phải là hoàn toàn vô lý [...] nhưng làm như vậy đối với một ngôn ngữ [...] như tiếng Việt thì sự vô lý đạt đến mức quái gở.’



Ngược lại với Cao Xuân Hạo, tôi cho rằng có ít nhất một số cấu trúc Đề-Thuyết của tiếng Việt có thể được coi là kết quả của chuyển vị, ví dụ như những câu trong (1). Tôi sẽ lập luận rằng vì những cấu trúc này tuân theo đúng những quy luật mà những cấu trúc được coi là kết quả của chuyển vị trong tiếng Anh cũng tuân theo nên ta có bằng chứng là chúng cũng là kết quả của chuyển vị. Xin lưu ý là đây không phải một lập luận logic, dựa trên diễn dịch và vì vậy nhất thiết phải đúng. Tôi không chứng minh được là những câu trong (1) là kết quả của chuyển vị, tôi chỉ đưa ra bằng chứng cho thấy chúng ta có thể tin như vậy mà thôi. Về điểm này ngôn ngữ học cũng không khác gì các môn khoa học tự nhiên khác. Trong ngành y, nếu một người có đủ các triệu chứng của bệnh lao thì chúng ta sẽ tin anh ta bị bệnh lao và dùng những kiến thức về bệnh lao để chữa, mặc dù về logic thì hoàn toàn có thể có một bệnh khác cũng có những triệu chứng như vậy.


2.1.

Trước khi xem xét bằng chứng thứ nhất, chúng ta cần phải làm quen với một số khái niệm sau: chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, và phụ ngữ. Chủ ngữ thường là chủ thể hành động, đứng trước động từ. Vị ngữ là tất cả những gì không phải chủ ngữ. Bổ ngữ thường chỉ đối tượng của động từ và đứng sau động từ. Phụ ngữ thường nói thêm những thông tin không bắt buộc như nơi chốn, thời gian, phong cách... Ví dụ trong câu dưới đây,

(2)

Sơn hôn My sau khi xem Titanic



Sơn là chủ ngữ, hôn My sau khi xem Titanic là vị ngữ, My là bổ ngữ và sau khi xem Titanic là phụ ngữ. Ta có thể diễn tả những thông tin này bằng cách dùng ngoặc vuông và subscript như sau.

(3)

[câu [chủ ngữ Sơn] [vị ngữ [động từ hôn] [bổ ngữ My] [phụ ngữ sau khi xem Titanic] ] ]



Một quan sát khái quát đúng cho rất nhiều các thứ tiếng là quy luật mang tên CED, viết tắt của conditions on extraction domains. [7] Nôm na thì CED nói rằng trong khi ta có thể chuyển vị một thành phần nằm trong bổ ngữ, ta không thể chuyển vị một thành phần nằm trong chủ ngữ hay phụ ngữ. Ba ví dụ dưới đây sẽ cho thấy điều này. (Tôi sẽ dùng * để đánh dấu một câu không hợp với linh cảm của người bản ngữ, i.e. sai ngữ pháp)

(4)

  1. I wonder [câu who John saw [bổ ngữ a picture of ___ ]]
  2. * I wonder [câu who [chủ ngữ a picture of ___ ] is lying on the table]
  3. * I wonder [câu who John gets angry [phụ ngữ when he sees a picture of ___ ]]



Vậy nên chủ ngữ và phụ ngữ được đặt tên là những hòn đảo (island). Những hiện tượng như trong (4b-c) được gọi là hiệu ứng đảo (island effects). Có thể thấy cái ẩn dụ ‚đảo’ cũng là một hệ quả của việc dùng ẩn dụ ‚chuyển vị’. Những gì nằm trong một chủ ngữ hay một phụ ngữ phải chịu cùng một số phận với Robinson Crusoe, tức là không đi đâu được. Ta có thể coi CED là phép chẩn đoán giúp ta biết liệu một cấu trúc có phải là kết quả của chuyển vị hay không. [8]

Quay lại với tiếng Việt. Chúng ta sẽ thấy là ít nhất một số cấu trúc Đề-Thuyết của tiếng Việt tuân theo CED, tức là cho thấy hiệu ứng đảo. Cụ thể là những trường hợp như sau.

(5)

  1. tôi đã tìm được [bổ ngữ hai quyển sách về ngôn ngữ học của Cao Xuân Hạo]
  2. về ngôn ngữ học thì tôi đã tìm được [bổ ngữ hai quyển sách ___ của Cao Xuân Hạo]

(6)

  1. [chủ ngữ hai quyển sách về ngôn ngữ học của Cao Xuân Hạo] chắc chắn sẽ gây ra tranh cãi
  2. * về ngôn ngữ học thì [chủ ngữ hai quyển sách ___ của Cao Xuân Hạo] chắc chắn sẽ gây ra tranh cãi

(7)

  1. tôi rất vui [phụ ngữ khi tìm được hai quyển sách về ngôn ngữ học của Cao Xuân Hạo]

  2. * về ngôn ngữ học thì tôi rất vui [phụ ngữ khi tìm được hai quyển sách ___ của Cao Xuân Hạo]



Những câu (a) là những câu 'bình thường', những câu (b) là những câu có 'đề hóa'. Ta thấy rằng ta chỉ có thể đề hóa một thành phần nằm trong bổ ngữ, nhưng không thể đề hóa một thành phần nằm trong chủ ngữ hay phụ ngữ. [9]

Điểm quan trọng nhất ở đây là nếu ta coi những cấu trúc Đề-Thuyết ở trên là kết quả của chuyển vị thì ta có thể mô tả được hiệu ứng đảo trong (6b) và (7b) bằng CED, một quy luật đằng nào cũng phải có và ngoài ra còn đúng cho rất nhiều các thứ tiếng khác. Nếu ta coi chúng là những cấu trúc cơ bản thì hiệu ứng đảo trong (6b) và (7b) sẽ phải được giải thích bằng cách khác. Cho đến nay tôi chưa thấy có 'cách khác' nào cả.

Vậy coi đề hóa là một thao tác chuyển vị có phải là một sự 'vô lý đạt đến mức quái gở' không? Tôi nghĩ là không. Nếu bảo trái đất hút mặt trăng mà mô tả được chuyển động của các hành tinh thì việc bảo trái đất hút mặt trăng không có gì là quái gở cả. Tại sao lại không coi ít nhất một số trường hợp đề hóa là chuyển vị, nếu nói như vậy có thể mô tả được các hiện tượng trong ngôn ngữ?



2.2.


Bây giờ ta đi đến bằng chứng thứ hai cho thấy một số trường hợp đề
hóa là chuyển vị. Cũng như trên, trước hết ta phải làm quen với một vài khái niệm. Những khái niệm này không có gì khó hiểu nhưng cần kiên nhẫn. Tôi xin bạn đọc hãy chịu khó một chút.

Chắc ai cũng biết rằng câu luôn luôn có một cấu trúc. Nói cách khác, câu không chỉ là một chuỗi các từ đứng cạnh nhau, mà các từ này còn 'túm tụm' lại thành từng nhóm khác nhau. Ví dụ trong câu poor John ran away, [10] poor và John nằm trong nhóm A = chủ ngữ, ran và away nằm trong nhóm B = vị ngữ, A và B nằm trong nhóm C = câu. Dùng ngoặc vuông và subscript như trên để diễn tả, ta có (8).

(8)

[C [A poor John] [B ran away]]



A, B, C là những thành tố của câu poor John ran away. Ta nói A chứa poor và John, B chứa ranaway, C chứa A và B. Chứa là một quan hệ mang tính bắc cầu (transitive), tức là nếu X chứa Y và Y chứa Z thì X chứa Z. Vậy nên C còn chứa cả poor, John, ran và away.

Ta sẽ dùng quan hệ chứa để định nghĩa một quan hệ khác có tên là chỉ huy (command). Ta nói nếu A là thành tố nhỏ nhất chứa X, A chứa Y và X không chứa Y, thì X chỉ huy Y. [11] Ví dụ trong câu (9),
và

(9)

[A tôi [B đọc sách]]



A là thành tố nhỏ nhất chứa tôi, và ngoài ra A còn chứa cả B, đọc, và sách. Vậy nên ta nói tôi chỉ huy B, đọc, và sách. A cũng là thành tố nhỏ nhất chứa B, nên B cũng chỉ huy tôi. Trong câu (10),

(10)

[C [A mẹ tôi] [B đọc sách]]



tôi không chỉ huy B, đọc hay sách, vì thành tố nhỏ nhất chứa tôi là A, và A không chứa B, đọcsách.

Khái niệm chỉ huy là một khái niệm hình thức trừu tượng. Câu hỏi là nó có giúp ta được gì trong việc mô tả kiến thức ngôn ngữ không. Câu trả lời là có. Một trong những việc cần đến khái niệm chỉ huy là việc mô tả sự phân bố (distribution) của các loại danh từ. Trong nhiều ngôn ngữ, có một loại danh từ mang tên 'danh từ đối nghịch' (reciprocals). Tiếng Anh có each other, còn tiếng Việt có nhau. Ví dụ nếu Sơn đánh Hưng và Hưng đánh Sơn, và ta gọi Sơn và Hưng là họ, ta có thể nói (11).
hay

(11)

[A họ [B đánh nhau]]



Cái đặc biệt của một danh từ đối nghịch R là nó bắt buộc phải có 'quan hệ' với một danh ngữ N nào đấy trong câu, và R chỉ có thể 'quan hệ' với một danh ngữ N khi N chỉ huy R. [12] Trong (11), họnhau, vậy nên nhau có thể được hiểu là Sơn và Hưng. Nhưng trong câu (12),
chỉ huy

(12)

[C [A vợ họ] [B đánh nhau]]



họ không chỉ huy nhau, [13] vậy nên ta không thể hiểu câu này là vợ của Sơn đánh Hưng và vợ của Hưng đánh Sơn được. Trong (12), danh ngữ duy nhất chỉ huy nhau là A, vậy nên nhau chỉ có thể có 'quan hệ' với cả cụm từ vợ họ mà thôi. Ta suy ra là (12) chỉ có thể có nghĩa là vợ Sơn đánh vợ Hưng và vợ Hưng đánh vợ Sơn. Dự đoán này hoàn toàn đúng với linh cảm của người bản ngữ.

Bây giờ hãy xem câu sau, tiếp tục dùng đại từ họ để chỉ Sơn và Hưng.

(13)

[sách của nhau] thì chắc chắn họ sẽ đọc



Ta gặp một vấn đề. Trong (13), họ không chỉ huy nhau, [14] nhưng ta vẫn hiểu được là Sơn chắc chắn sẽ đọc sách của Hưng và Hưng chắc chắn sẽ đọc sách của Sơn. Nói cách khác, nhau vẫn quan hệ được với họ. Làm thế nào đây? Hay là ta chấp nhận rằng trong một số trường hợp ngoại lệ, R có thể quan hệ với N mà không cần N phải chỉ huy R?

Hãy xem tiếp ví dụ sau.

(14)

[sách của nhau] thì chắc chắn vợ họ sẽ đọc.




Câu này rất giống với câu (13), và nếu ta chấp nhận rằng trong một số trường hợp ngoại lệ, R có thể quan hệ với N mà không cần N phải chỉ huy R, thì tại sao trong (14) nhau lại không thể quan hệ được với họ? (14) không thể có nghĩa là vợ Sơn sẽ đọc sách của Hưng và vợ Hưng sẽ đọc sách của Sơn, mà chỉ có thể có nghĩa là vợ Sơn sẽ đọc sách của vợ Hưng và vợ Hưng sẽ đọc sách của vợ Sơn. Nói cách khác là trong (14), nhau chỉ có thể quan hệ được với cả cụm từ vợ họ mà thôi. Liệu ta có nên bảo (14) là một trường hợp ngoại lệ của một trường hợp ngoại lệ không?

Câu trả lời là không. Ta có thể giải thích cả (13) lẫn (14) mà không cần đến bất cứ ngoại lệ nào. Cách giải quyết vấn đề khá đơn giản. Hãy xem những câu sau.

(15)

  1. [họ [chắc chắn sẽ đọc sách của nhau]]
  2. [[vợ họ] [chắc chắn sẽ đọc sách của nhau]]



Có thể thấy là (15a) và (15b), về khía cạnh ngữ nghĩa liên quan đến việc xác định sở chỉ (reference) của nhau, giống hệt với (13) và (14). Hơn nữa, (15a) và (15b) hoàn toàn không có gì ngoại lệ cả. Trong (15a) họ chỉ huy nhau, vậy nên nhau có thể chỉ Sơn và Hưng. Trong (15b), không phải họ mà là cả cụm từ vợ họ chỉ huy nhau, vậy nên nhau chỉ có thể chỉ vợ Sơn và vợ Hưng mà thôi. Tại sao ta không nói rằng ở một tầng nào đấy, tầng liên quan đến việc xác định sở chỉ của nhau, (15a) giống hệt (13) và (15b) giống hệt (14), và (13) cũng như (14) là kết quả của một thao tác chuyển vị áp dụng lên (15a) và (15b). Tất nhiên là ta sẽ nói như vậy. Cụ thể hơn, ta nói rằng (15a) và (13), cũng như (15b) và (14), có chung một cấu trúc sâu, và cấu trúc sâu là nơi ta xác định ý nghĩa và sở chỉ của danh từ đối nghịch.

Bạn đọc có thể thấy rằng bằng cách dùng một lý thuyết có các khái niệm như cấu trúc sâu và chuyển vị, chúng ta giải thích được một cách có nguyên tắc những hiện tượng thoạt nhìn có vẻ khá rối loạn của ngôn ngữ. Kết luận cụ thể hơn là trong tiếng Việt, có ít nhất một số cấu trúc Đề-Thuyết có thể được coi là kết quả của thao tác chuyển vị.


3.

Để kết thúc, tôi sẽ nói một chút về cái ý tưởng có lẽ là nổi tiếng nhất của ngôn ngữ học Chomsky, cái vẫn được gọi là 'thuyết bẩm sinh' (innateness hypothesis). Khác với nhiều người nghĩ, Chomsky không hề có một cái thuyết gì như vậy cả. Chomsky đưa ra một lý thuyết về kiến thức ngôn ngữ. Trong cái kiến thức đó, một quy tắc X có bẩm sinh hay không phụ thuộc vào câu hỏi làm thế nào đứa trẻ học tiếng biết được X. Nếu đứa trẻ có thể học X từ những gì nó nghe được thì X không phải bẩm sinh. Nếu đứa trẻ không thể học được X từ những gì nó nghe được thì nó phải tự đoán ra X, và nếu hàng tỉ đứa trẻ khác nhau trên thế giới đều đoán ra X thì rõ ràng là ta có lý do để nói X là một kiến thức bẩm sinh. Ví dụ, đứa trẻ có thể học được từ những gì nó nghe khái niệm bàn là [table] trong tiếng Anh và [tisch] trong tiếng Đức, nhưng nó không thể học được là ngữ pháp có cấu trúc sâu và thao tác chuyển vị. Những dữ liệu trong môi trường ngôn ngữ không thể đủ để giúp nó đi đến kết luận này được. Vậy nên ta nói là khi đứa trẻ học tiếng, nó phải biết trước được là trong ngôn ngữ, có những cấu trúc 'cơ bản' hơn những cấu trúc khác, và người ta có thể dùng các phép 'chuyển hóa' để tạo ra những cấu trúc 'phái sinh', ví dụ như vậy.

Bạn đọc có thể đáp lại rằng ừ thì cứ cho là lý thuyết về kiến thức ngôn ngữ cần phải có khái niệm cấu trúc sâu đi, nhưng đấy cũng chỉ là lý thuyết thôi chứ đâu có phải sự thật. Đồng ý, nhưng thế nào là sự thật? Trái đất hút mặt trăng có phải là sự thật không? Tất nhiên là có, vì sự thật chính là lời giải thích mà lý thuyết hay nhất hiện tại đưa ra. Nếu lý thuyết hay nhất hiện tại nói rằng trong con mắt của một kẻ quan sát đứng tại chỗ, đồng hồ của người ngồi trên tàu hỏa đang di chuyển chạy chậm hơn đồng hồ của người đứng dưới đường, thì sự thật sẽ là như vậy. Còn nếu bảo sự thật là cái ta cảm thấy rõ ràng là phải đúng, thì trái đất sẽ là một cái mâm phẳng và bầu trời sẽ là một cái lồng bàn có gắn những ngôi sao lấp lánh được di chuyển bằng những thiên thần có cánh.

Vì ngôn ngữ là một khả năng bẩm sinh nên chúng ta thấy tất cả những gì chúng ta nói đều rất hợp lý, rất tất nhiên, 'có cái gì đâu', và chúng ta ít khi nghĩ đến câu hỏi tại sao lại nói được thế này mà không nói được thế kia. Hy vọng qua bài viết này, bạn đọc sẽ hiểu hơn về bản chất của ngôn ngữ học hiện đại và nhìn cái khả năng đặc biệt của con người này với một con mắt hơi khác.


Những tài liệu được nhắc đến trong bài:


Bloomfield, L. Language. Motilal Banarsidass.
Cao Xuân Hạo. 1986. Một số biểu hiện của cách nhìn Âu châu đối với cấu trúc tiếng Việt. Trong: Tiếng Việt. Mấy Vấn đề Ngữ âm, Ngữ pháp, Ngữ nghĩa. Nhà xuất bản Giáo dục, 2001.
Chomsky, N. 1957. Syntactic Structure. Mouton.
_____. 1981. Lectures on Government and Binding. Mouton de Gruyter.
_____. 1995. The Minimalist Program. MIT Press.
Fanselow, G. & Damir Cavar. 2000. Distributed Deletion. Potsdam Universität.
Huang, C.-T.J. (1982). Logical Relations in Chinese and the Theory of Grammar. MIT Dissertation.
Kayne, R. 1994. The Antisymmetry of Syntax. MIT Press.
Lasnik, H & Myung-Kwan Park. 2003. The EPP and the subject condition under sluicing. Linguistic Inquiry. Volume 34, Issue 4.


© 2004 talawas


[1]Nói đúng hơn là nó phải đứng ở chỗ khác vì như vậy nó mới có thể được phát âm, theo Chomsky (1995), chương 3.
[2]Xin lưu ý là cấu trúc sâu không phải là ý nghĩa, mà cấu trúc bề mặt không phải là âm thanh. Cấu trúc sâu chỉ là đóng góp của phần cú pháp cho ý nghĩa, và cấu trúc bề mặt là đóng góp của nó cho âm thanh, còn bản thân ý nghĩa và âm thanh là kết quả có được sau khi bộ phận ngữ nghĩa và ngữ âm „đọc“ cấu trúc sâu và cấu trúc bề mặt. Khái niệm cấu trúc sâu và cấu trúc bề mặt hiện giờ không còn được dùng nữa, nhưng trong lý thuyết ngữ pháp vẫn có sự phận biệt giữa thao tác xây dựng cấu trúc (structure building) mà kết quả là một cái gì đó từa tựa như cấu trúc sâu ngày xưa, tức là gần với ngữ nghĩa lô-gích (deep semantics), và thao tác thay đổi cấu trúc (structure manipulation) mà kết quả gần giống như cấu trúc bề mặt, tức là gần với âm thanh và ngữ nghĩa giao tiếp (surface semantics).
[3]Xem Chomsky (1957), chương 5 và 8.
[4]‘Các nhà triết học’ ở đây chỉ những người theo trường phái logical positivism, tức Wiener Kreis.
[5]Giai đoạn của trường phái Cấu trúc Mỹ (American Structuralism) trong những năm 30-50. Tất nhiên là đến tận bây giờ vẫn có những nhà nghiên cứu ngôn ngữ bỏ công tìm hiểu những discovery procedures

[6]Xem Chomsky (1957), chương 6. Trong quyển sách này, Chomsky nói rằng lý thuyết ngôn ngữ có nhiệm vụ đưa ra một thước đo để dựa vào đó chúng ta có thể nói ngữ pháp G1 có ‘hay’ hơn ngữ pháp G2 hay không, đối mặt với một tập hợp dữ liệu. Ẩn ý là đứa trẻ có cái thước đo này trong đầu khi chúng tiếp cận với dữ liệu ngôn ngữ và tìm cách đoán ra một ngữ pháp. Quan điểm này bị bác bỏ sau khi mô hình P&P (Principle and Parameter) ra đời.
[7]Xem Huang (1982).
[8]Xin lưu ý là CED chỉ là một khái quát hóa (generalization) chứ không phải một nguyên tắc (principle). Nó chỉ mô tả lại hiện tượng thôi chứ không giải thích được gì cả. Những hiện tượng mà CED mô tả đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau. Xem chú thích sau.
[9]Ai cũng phải thấy là (6b) hơn hẳn (7b). Thực ra đó là hai hiện tượng khác nhau, tức là (6b) vi phạm một nguyên tắc khác với (7b). Xem Lasnik & Park cho (6b), xem Stepanov cho (7b). Ngoài ra, ai tinh ý sẽ nhận ra rằng mặc dù (6b) là một câu tồi vì có chuyển vị ra khỏi chủ ngữ, nhưng câu (i) sau đây lại tốt hơn hẳn, mặc dù có vẻ là cũng có chuyển vị khỏi chủ ngữ:
- sách về ngôn ngữ học thì [quyển ___ của Cao Xuân Hạo] chắc chắn sẽ gây tranh cãi
- Có thể nói rằng nếu ta di chuyển cả danh từ sách thì CED lại không có tác dụng nữa. Nhưng điều này không đúng, vì (ii) vẫn hoàn toàn không chấp nhận được:
- * sách về ngôn ngữ học thì tôi rất vui khi tìm thấy [quyển ___ của Cao Xuân Hạo]
Fanselow & Cavar đưa ra một cách giải thích hay cho (i). Stepanov giải thích được (ii).
[10]Ví dụ của Bloomfield trong Bloomfield (1933).
[11]Nói một cách khác, nếu ta kết hợp A và B để tạo nên một thành tố [C A B], thì A sẽ chỉ huy B và tất cả những gì chứa trong B.
[12]Xem Chomsky 1981, chÆ°Æ¡ng 3.
[13]Vì thành tố nhỏ nhất chứa họ là A = vợ họ, và A không chứa nhau
[14]‘Chỉ huy’ dẫn đến ‚đi trước’, nhưng không phải ngược lại (xem Kayne). Vậy nên nếu A không đi trước B thì A không thể chỉ huy B.

Bài trả lời của Cao Xuân Hạo

Cao Xuân Hạo

Vài lời nhân bài viết của Trịnh Hữu Tuệ

Tôi rất mừng khi thấy talawas bắt đầu đăng những bài có nội dung Ngôn ngữ học. Ở ta có một hiện tượng lạ (tôi biết câu này rất thừa, bởi vì ở ta chỉ có toàn những hiện tượng lạ mà thôi) là nh
ững người làm văn học (nghiên cứu hay phê bình) chưa bao giờ thèm chú ý đến ngôn ngữ, mặc dầu ngôn ngữ chính là chất liệu của văn học. Làm văn học mà không biết gì về ngôn ngữ chẳng khác nào làm âm nhạc mà không biết gì về âm thanh (cao độ, khoảng cách, âm giai, hòa âm, điệu thức, v.v.) hay làm hội họa mà không biết gì về mầu sắc, hình thể, đường nét, nhãn giác, viễn cận, bố cục, v.v. Ở ta, sự dốt nát về ngôn ngữ (về tiếng Việt) có một lý do tự nhiên: đó là sách và bài vở của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam chưa bao giờ viết một câu nào về tiếng Việt: tất cả đều dịch từ sách ngữ pháp tiếng Pháp, và các nhà ngôn ngữ học Việt Nam chưa bao giờ dành ra một phút để quan sát xem thử người Việt nói năng như thế nào. Lác đác trong sách của vài người như Trương Vĩnh Ký (1883) hay Phạm Duy Khiêm (trong sách của Trần Trọng Kim & Bùi Kỷ 1940) có viết về một vài sự thật không thể chối cãi của tiếng Việt, nhưng chẳng có ai thèm nghe, vì cái định kiến cho rằng tiếng Việt chính là tiếng Pháp được coi là một chân lý thiêng liêng hơn cả sự thật khoa học.

Cho nên ông Trịnh Hữu Tuệ viết bài ấy là chuyện hoàn toàn hiểu được. Trả lời bài ấy mới là việc khó. Muốn trả lời, phải viết lại dăm chục nghìn trang, trong đó có vài nghìn trang của tôi (và của những người đi theo hướng của tôi) và mấy chục nghìn trang của dăm trăm tác giả phương Tây: những tiền giả định (presuppositions) cần thiết cho một cuộc tranh luận, dù là hời hợt, cũng quá nhiều và quá lớn.

Tuy nhiên, trong chừng mực có thể, tôi cũng xin viết ra đây vài điều quan yếu nhất.

N. Chomsky cho rằng trong một câu như Invisible God created the visible world, ở cấu trúc sâu có ba câu là 1. God is invisible; 2. God created the world; 3, The world is visible. Lời khẳng định này đã cho phép tất cả các nhà ngữ học không phải là môn đệ của Chomsky nói rằng ông ta không hề quan tâm chút nào đến ngôn ngữ trong khi tự nhận mình là nhà ngôn ngữ học. Riêng ở đây, ông không thèm biết rằng ta chỉ có một câu duy nhất, còn những cái mà Chomsky gọi là câu tuyệt nhiên không phải là câu, mà là những ngữ đoạn (phrases hay syntagms). Ngôn ngữ nào cũng có những phương tiện bắt buộc phải dùng để phân biệt câu (sentences hay [simple]clauses) với phi câu (“bất thành cú”), mà U.Weinreich gọi là backgrounding devices. Ba phần Invisible God; created the visible world và the visible world đều đã bị đẩy lùi vào hậu cảnh (backgrounded) và do đó không còn là câu nữa mà chỉ là những danh ngữ (noun phrases), hay những vị ngữ (verb phrases) Và đó cũng chính là một sự phân biệt hết sức quan trọng mà ngay người bản ngữ cũng phải “nhập nội” (internalize – Chomsky) ngay từ đầu.

Năm 1976, Ch. Li & Sandra Thompson cho xuất bản cuốn Subject and Topic với sự tham gia của nhiều tác giả cỡ lớn, trình bày “a new typology of languages”, chia các ngôn ngữ thành bốn loại lớn, trong đó sự tương phản lớn nhất là giữa subject-prominent languges (như các ngôn ngữ Ấn Âu) và topic-prominent languages (như các ngôn ngữ đơn lập – isolating languages). Từ đó, hầu hết các tác giả nghiên cứu tiếng Hán và tiếng Việt đều phân tích câu thành hai phần Ðề-Thuyết. [1]

Làm như vậy, họ đi theo một truyền thống đã có từ những năm 20 với trường Prague và với Sapir (và sau này, ở Mỹ, là Ch. F. Hockett (1958). Cách làm này phù hợp với quan niệm về câu của E.Sapir (1921) như là the linguistic expression of a proposition, và mâu thuẫn với lý thuyết của Chomsky. Trong cuốn A Grammar of Vietnamese (1965) L.Thompson là người đầu tiên thấy rằng tiếng Việt không có grammatical subject như tiếng Ấn Âu, mà chỉ có logical subject (sở đề logic) và do đó mà vô hình trung nhất trí với Sapir và C. Li & S.Thompson.

Tôi đi theo các tác giả này không hẳn là vì không tán thành Chomsky. Mặc dầu ngày nay phần lớn giới ngữ học đã thấy rõ rằng cuộc “cách mạng thứ hai” [2] của ông không đem lại một giải pháp gì đáng tin cậy, Chomsky vẫn là một tài năng lớn [3] . Nhưng những thành công quan trọng nhất của ông nằm trong lĩnh vực hình thái học (morphology), mà tiếng Việt thì lại hoàn toàn không có morphology, cho nên không thể dùng bất kỳ cái gì của Chomsky được hết, trong đó có cái gọi là grammatical subject, nhất là khi người ta nhớ kỹ cách định nghĩa khái niệm này trong ngôn ngữ học truyền thống của châu Âu.

Năm 1991 và 1995, khi ở Pháp, nhân dịp báo cáo về cấu trúc của câu tiếng Việt, tôi phản đối khái niệm topicalization của Chomsky, thì tôi đã gặp được một sự đồng tình hoàn toàn hất trí của tất cả các thính giả có mặt.

Lập luận của tôi là như sau:

Cái hậu tố (suffix) -ize/-ization/-ification (tiếng Việt dịch là -hoá) chỉ dùng được khi nào cái được chuyển hóa là một cái gì không được gọi đúng tên của nó. Chẳng hạn, chỉ có thể nhân cách hoá (personification) một cái gì không phải là người (mà là thần hay chó chẳng hạn). Ðàng này trong một câu như Bàn lau rồi đấy, thì bàn chính là topic, làm sao còn topicalized được nữa? Cái sai là ở chỗ Chomsky không hiểu gì về cấu trúc Ðề-Thuyết, cho nên dùng một thuật ngữ có những presuppositions sai trái.

Cũng nên nói rõ: vì yên trí (một cách vô thức) rằng tiếng Việt 100% là tiếng Ấn Âu, cho nên có những tác giả tuyên bố thẳng thừng rằng những câu như Bàn lau rồi hay Tôi tên là Nam đều sai ngữ pháp và thậm chí vô văn hóa. Chẳng qua vì họ thấy không thể phân tích bằng ngữ pháp tiếng châu Âu được mà thôi. Tôi đã từng chứng minh rằng hai câu này không đồng nghĩa với Tôi đã lau bàn rồi và Tên của tôi là Nam, và do đó không thể coi là transforms của nhau, vì hai câu này nói về hai đề tài (topics hay themes) khác. [4]

Nói tóm lại, bài của Trịnh Hữu Tuệ cÅ©ng nhÆ° những bài sau này của tôi chỉ đúng chá»— trong văn cảnh cá
»§a má»™t chuyên mục đã có sẵn những bài cÆ¡ bản hÆ¡n. Ðó là má»™t Ä‘iều mà tôi rất mong là talawas sẽ làm được.

© 2004 talawas


[1]Li Charles and Sandra Thompson. Mandarin Chinese. A Functional Reference Grammar. 1981; Dyvik H. J. J, Subject or Topic in Vietnamese. 1984
[2]Vào thập kỷ 50, các môn đệ của Chomsky gọi sự ra đời của ngữ pháp sản sinh như vậy (cuộc cách mạng ”thứ nhất” là cấu trúc luận của F. de Saussure, “người cha đẻ của ngôn ngữ học hiện đại”.
[3]Cái “lớn” nhất của ông có lẽ là trong quá trình xây dụng lý thuyết của ông, ông luôn luôn tiếp thu những cái mới để bổ sung và uốn nắn quan điểm của mình, đến nỗi những sáng tác gần đây của ông không còn lại bao nhiêu của dạng thức ban đầu (như trong Syntactic structures (1947). Ngay như lời tuyên bố của ông về quan điểm mentalistic (một thứ tội lỗi bất khả dung thứ dưới mắt phái miêu tả đang thống trị nền ngữ học Mỹ hồi ông bắt đầu viết, nhưng lại được ông nhận làm quan điểm của mình), ông cũng từ bỏ nốt như ta có thể thấy rõ qua cách trình bày tuy đơn sơ nhưng đủ chính xác của Trịnh Hữu Tuệ, trong đó ngữ pháp tạo sinh được trình bày như một thứ thủ pháp thực dụng (“hocus-pocus linguistics”), mà nhà ngữ học có thể dùng (nếu thấy thích) chứ không phải một lý thuyết nhằm đi tìm chân lý khoa học (cf. “God’s truth linguistics”, vốn nằm trong vốn tri thức chủ quan và không tự giác của người bản ngữ như trong quan niệm của Saussure, một người mentalist điển hình.
Muốn thấy rõ hơn những vấn đề được tiền giả định trong bài của Trịnh Hữu Tuệ, xin xem On Understanding Grammar của T. Givón 1979, và luôn thể xem những tác giả mà tôi có dẫn trên.
[4]Xem bài Linh hồn tiếng Việt, trong Tiếng Việt, Văn Việt, Người Việt, Nxb Trẻ, 2001



15 comments:

  1. Theo em trong truong hop cac bai viet cua anh Tue thi kha nang lam cho no de tiep can hon co mot ly do rat quan trong la vi no sang sua ve tu duy va dien dat. Ca trong cac thao luan thuong nhat cung the, noi chung anh Tue suy nghi mot cach rational va co kha nang articulate rat tot.

    ReplyDelete
  2. Cảm ơn bác Linh đã trích lại. Đọc bài của Trịnh Hữu Tuệ thấy có tính khoa học hơn, cũng dễ tiếp cận đối với người ngoại đạo hơn. Nhiều đoạn trong bài của Giáo sư Hạo cho cảm giác ông không hiểu bài của Tuệ, mà nội dung sâu là khác biệt về quan niệm về khoa học ngôn ngữ với quan niệm (tạm gọi) về chính sách ngôn ngữ. Quan niệm về khoa học ngôn ngữ như anh Tuệ giới thiệu khá giống với các ngành khoa học xã hội khác hiện nay.

    ReplyDelete
  3. Từ những gì anh Tuệ viết trong hai bài bác Linh đăng, thì có thể thấy được rằng quan niệm của anh (hay của cả Chomsky?) thiên rất nhiều về khoa học thực chứng (ảnh hưởng của logical positivism?), và giảm thiểu lý luận chuẩn tắc (normative). Trong khi Giáo sư Hạo có mục đích rõ ràng về lý luận chuẩn tắc (thế nào là chuẩn, cần phải phân biệt đúng-sai thế nào vv.) Cũng là một hướng nghiên cứu hay. Có điều, tôi không hiểu ngôn ngữ học sẽ sử dụng những công cụ gì để xác định tính chuẩn ở đây. Các ngành xã hội nói đến tính chuẩn tắc thì có social choice, moral philosophy. Cách định chuẩn của ông Hạo có lẽ hơi cảm tính. Cũng giống như nói: xưa các cụ chỉ có marital sex, nên premarital sex là sai, con cháu không được thế.

    ReplyDelete
  4. Tư duy Trịnh Hữu Tuệ có vẻ là sáng vì đi bằng con đường thực chứng, nhưng logic chủ đạo thì rất tối. Chỉ bằng vào vài ví dụ thì không đủ để khái quát ra quy luật gì về tiếng Việt cả, càng không đủ để nói là nó chỉ như thế và không thể nào có sai biệt. Để chỉ ra cái khiếm khuyết của tư duy này thì rất đơn giản. Chỉ cần đưa ra một số ví dụ phản đề là đủ rồi. Nhưng bác Hạo lại muốn tỏ ra sang trọng (một cách không cần thiết?) Có lẽ bác ý xem cái khiếm khuyết này là quá hiển nhiên, tới mức không thèm chỉ ra. Để rồi chỉ coi bài viết của đồng chí Tuệ như cái cớ để bàn về những vấn đề khác mà bác ý cho là quan trọng hơn.

    Theo tôi hiểu thì tiếng Việt có cấu trúc bề mặt khác với ngôn ngữ Ấn Âu. Đồng chí Tuệ muốn dựa vào Chomsky để khẳng định rằng bề mặt nó đa dạng, nhưng nhìn vào cấu trúc sâu thì cũng như nhau cả thôi. Nghe qua thì rất khoa học, rất dễ hiểu. Nhưng cái nguy hiểm mà tôi thấy ở đây là cấu trúc sâu theo kiểu Chomsky tuy bảo là sâu nhưng thực ra không sâu. Nó hoàn toàn tiêu diệt các quan hệ chính phụ của cấu trúc bề mặt (cái được nhấn mạnh vs cái không được nhấn mạnh). Chính quan hệ chính phụ này làm cho một câu nói nào đó có tính duy nhất về ngữ nghĩa, cho dù nếu xét theo cấu trúc sâu của Chomsky thì nó na ná như một câu khác. Có lẽ đó là lí do bác Hạo nói rằng câu Invisible God created the visible world chỉ là một.

    ReplyDelete
  5. Thanks Linh đã post hai bài này. Tớ đọc một mạch và cũng chẳng biết phải bênh ai hơn vì tớ thấy 2 ng đều extreme trong quan điểm, mặc dù Tuệ có vẻ giữ được bình tĩnh hơn. Cụ Hạo thì hay lớn tiếng, nghe hơi phản cảm trong 1 cuộc tranh luận có tính academic.

    Theo sự hiểu của tớ về 2 trường phái NN này thì chúng k nhất thiết phải loại trừ lẫn nhau (mutually exclusive). Mà thực ra trong ngành NN ứng dụng của bọn tớ, bọn tớ khai thác cả 2 trường phái này, ko extreme là phải chọn 1 trong 2 vì rõ ràng cái nào cũng có khiếm khuyết và cần bổ sung cho nhau.

    Ngữ pháp tạo sinh (TA: transformational-generative grammar)và giả thuyết về phổ quát ngữ pháp (TA: Universal Grammar Hypothesis) của Chomsky giải thích cơ chế tạo sinh ngôn ngữ còn Ngữ pháp chức năng của Halliday (TA: systemic functional grammar) giải thích chức năng của ngôn ngữ, 2 mục đích khác nhau nên tớ không hiểu tại sao cả 2 bác lại cứ nhảy dựng lên với nhau?

    Quan điểm của Chomsky là tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều giống nhau về cấu trúc sâu, chỉ khác biệt về cấu trúc bề mặt (số lượng các cấu trúc sâu là có hạn nhưng từ đó có thể sản sinh ra vô hạn các cấu trúc bề mặt). Chính vì các ngôn ngữ đều giống nhau về cấu trúc sâu (i.e. phổ quát) nên một đứa trẻ mới có thể học được mọi ngôn ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ của nó. Và cũng chính vì kiến thức về cấu trúc sâu của con ng là bẩm sinh (do các cấu trúc đó phổ quát) nên trẻ con mới nói được những câu mà nó chưa nghe thấy bao giờ và xử lý được những cấu trúc vô cùng phức tạp mà nếu chỉ dựa vào dữ liệu từ môi trường ngôn ngữ thì ko đủ để giúp nó xử lý (nếu bạn muốn hiểu thêm về đắc thụ ngôn ngữ thì tớ có 1 bài tổng quan tóm tắt ở đây: http://blog.360.yahoo.com/blog-oL3bqGk5eqiYZCkxi0NtRNwRQ2I-?cq=1&p=4).

    Lý thuyết của Halliday (ngữ pháp chức năng) thì giải thích cho chức năng của ngôn ngữ về mặt xã hội chứ ko phải để giải thích cơ chế tạo ngôn ngữ như lý thuyết của Chomsky. Và cho dù ngữ pháp chức năng hiện nay là trường phái được ưa chuộng nhất trong ứng dụng vào giảng dạy ngôn ngữ, nó chưa bao giờ là 1 trường phái thay thế cho Chomsky, đơn giản vì nó không cùng mục đích và nếu như Chomsky nhìn từ quan điểm của mentalist coi ngôn ngữ có cơ chế bên trong thì Halliday nhìn từ quan điểm của interactionist, coi ngôn ngữ là hoạt động xã hội và nhấn mạnh ý nghĩa ngữ dụng của ngôn ngữ.

    Tớ thấy để kiến giải đầy đủ về ngôn ngữ thì cần nhìn từ nhiều perspective. VD trong cuộc tranh luận trên đành rằng câu "Bàn đã lau rồi đấy" có ý nghĩa khác với "tôi đã lau bàn rồi đấy" (khác ở focus of information) nhưng về cấu trúc bề sâu thì 2 câu là 1. Nếu không thì tại sao người Việt bản ngữ lại biết "Bàn đã lau rồi đấy' là đúng NP còn "Rồi đấy đã lau bàn" là sai? (rồi đấy là phụ ngữ, ko đảo đc) Chomsky (và Tuệ) có lý ở chỗ đó.

    Nhưng nếu chỉ chăm chăm tìm cơ chế tạo sinh NN mà bỏ qua ý nghĩa ngữ dụng của câu thì sẽ ko thấy đc sự khác biệt thú vị giữa hai câu có cùng cấu trúc sâu nhưng khác về cấu trúc bề mặt như nói trên (chỗ này bác Hạo có lý).

    Tóm lại, tại sao phải đánh nhau 1 mất 1 còn??



    ReplyDelete
  6. Tớ giờ mới đọc mấy bài này. Nói chính xác thì đây không phải là cuộc tranh luận mà là việc hai người diễn ngôn các quan điểm khác nhau về ngôn ngữ. Bác Hạo thì quan tâm tới khía cạnh “chính sách” của ngôn ngữ trong khi bác Tuệ thì chú ý tới tính thực chứng của ngôn ngữ. Sự phủ nhận quan điểm của nhau như thế cũng hơi lệch pha vì cái đích của họ là khác nhau. Nói một cách chính xác thì bài của bác Hạo đã được lấy tên là “Vài lời nhân bài viết của Trịnh Hữu Tuệ” cho thấy bác ấy không định tranh luận với Tuệ mà chỉ nhân dịp này giới thiệu sơ qua quan điểm của mình về ngôn ngữ, đồng thời khẳng định rằng trường phái Chomsky không có ý nghĩa thực tiễn trong tiếng Việt. Thái độ này của bác Hạo khiến bạn Tuệ khó chịu vì cho rằng bác Hạo không có thái độ học thuật đúng đắn trong tranh luận (nhưng thật ra mục đích của bài bác Hạo là không phải tranh luận học thuật) nên bạn Tuệ cũng phản ứng lại khá mạnh mẽ khi cho rằng bác Hạo chẳng hiểu gì về Chomsky.
    Trong cuộc trao đổi này thì bạn Tuệ viết rõ ràng khúc chiết và có tính học thuật hơn- nhưng việc đó cũng vì bài viết của bạn đã có chủ định là mang tính học thuật và trình bày trên phương diện thực chứng. Nhưng từ cuộc tranh luận này thì chưa đủ để nói là phương pháp tiếp cận của bác Hạo là lạc hậu so với thế giới, bởi vì như bạn Hana có nói, trường phái ngôn ngữ của bác Hạo và của bạn Tuệ cùng tồn tại song song và nhằm tới các mục đích khác nhau. So sánh một cách khập khiễng thì cũng tương tự như triết học phân tích (nặng thực chứng) và triết học hiện sinh (nặng chuẩn tắc), hay New Keynesian (chú trọng chính sách) và New Classical (chú trọng lý thuyết) trong kinh tế học.

    ReplyDelete
  7. "Ngược lại với Cao Xuân Hạo, tôi cho rằng có ít nhất một số cấu trúc Đề-Thuyết của tiếng Việt có thể được coi là kết quả của chuyển vị". Đây là mệnh đề chính của cả bài viết nhưng anh Tuệ nhét nó vào khoảng gần giữa, gần như bị vùi kín mít. Mà đọc kỹ thì logic mệnh đề chính này cũng khá buồn cười.

    Thực tế Cao tiền bối không nói cái thuyết của Chomsky vô dụng, chỉ nói rằng nếu dùng để hiểu tiếng Việt thì sẽ gây ra sự quái gở. Có thể hiểu câu này thế nào? Nếu một quy luật tuy không phải lúc nào cũng bất hợp lý, nhưng nhiều khi gây ra bất hợp lý, thì đã đủ để người ta bảo là nó gây ra sự quái gở rồi. Anh Tuệ chắc xót ruột quá, vội bảo là "có ít nhất một số" lúc nó cũng ok chứ không quái gở. Đúng như bạn Hana nói, ở đây chẳng ai đụng vào ai cả. Anh Tuệ bảo "ngược lại với Cao Xuân Hạo" có lẽ để nghe cho có vẻ oách thôi :)

    ReplyDelete
  8. - Ông Hạo vừa mất vài bữa thôi, lôi ra nói/khen chê về ông nhiều quá thiệt hông 'phải đạo'. Nói dzị nhưng nghĩ chắc ông là cao nhơn tiền bối hổng chấp chi chuyện lặt vặt, hậu nhơn (như tui) hổng hiểu khỉ gì ông nói hết mà cũng bày đặt nhảy vô bà tám.
    - Ông Hạo hổng trả lời bạn Tuệ vì bài của bạn ý có gì đâu mà trả lời nà (có cao nhơn nào làm ơn chỉ giùm tui chỗ cần trả lời là chỗ nào dzị), dzí lại những gì ông cần nói cũng đã nói rùi á (mấy ngàn trang sách của ông và quan điểm 'vụn vặt' ông đã nhắc trong cái bài viết 'Trả lời...') ! Ậy, vậy mừ dân Dziệt Nam mình kỳ lắm nghen, trong mấy cuộc 'cãi lộn' cứ tên nào là tên có tiếng nói cuối cùng thì cứ y như là tên đó nói trúng (nên tên kia hổng nói nữa?).
    - Tui hổng biết Chomsky đã làm được chi cho Việt ngữ học, nếu 'nghiêm túc' phải đọc hết những gì Chomsky viết rùi quay ngược lại coi có chỗ nào xài được cho Tiếng Việt hôn. Mất công quá (mừ nếu được bạn nào có bản lĩnh nói cho tui nghe 'cái dụng của 'lý thuyết' Chomsky vào Việt ngữ thì tui cảm ơn), trong khi đó về Việt ngữ thì những gì 'lý thuyết' của ông Hạo 'xài' rất được.

    Tui chưa đọc những gì Chomsky 'chánh miệng' nói về ngữ pháp tạo sinh, cấu trúc bề mặt, cấu trúc về sâu, hay chuyển vị như những thứ có 'hiệu quả' phổ quát với mọi ngôn ngữ. Nhưng tui thường hay nghi mấy cái gì có giá trị 'phổ quát' lắm nghen, vì thường nó hay chụp mũ, quăng cái vòng kim cô cho những cái mà nó ko có liên quan hay ko hiểu cái gì hết. Tui cứ giả bộ rằng cái dụng của ngữ pháp là xài để phân tích câu/ ngữ/từ, là để 'lí giải' cách nói của một ngôn ngữ (dẫu là bản ngữ hay ko). Theo tui hiểu (từ những gì các bạn ở đây viết) quan của của Chomsky rằng ý muốn 'đẩy' cấu trúc bề mặt (thực tế diễn ngôn?) xuống cấu trúc về sâu, muốn nhìn sâu 1 câu theo logic bằng việc phân rã (decompose)/tái dựng (construct) nó bằng các 'proposition' (Chomsky gọi là sentence, ông Hạo cho nó là phrase thui). Và từ đó, cho rằng mình đã phân tích được câu/ngữ/từ.
    - Câu hỏi 1: Cái 'thủ pháp' đó có dùng được cho 'tất cả' hay phần lớn các câu tiếng Việt ko? Có thể được đó (như bạn Tuệ đã chỉ ra nó phân tích được 'một số' câu tiếng Việt) vì bất kỳ diễn ngôn nào mà anh ko dùng được cái proposition, quy luật logic/tư duy để diễn giải nè. Nếu 'mục đích' chỉ dừng ở đó thì thui đi mần triết học, giành sức cãi nhau với logic thực chứng đi. Nói dzị mấy fan của phe logic thực chứng đừng chọi dép vì thiệt ra cái thủ pháp này nó tương tư như 'triết học phân tích' hay logic thực chứng mà thôi, tức đẩy diễn ngôn xuống 'mệnh đề/tiên đề' chứ đâu có làm bước 'thực chứng' (true or false)
    - Câu hỏi số 2: tính hiệu quả của 'thủ pháp' đó trong tiếng Việt là bao nhiêu? Nếu tui dùng cái 'thủ pháp' anh nói phân tích tiếng Việt mà tui thấy mất công quá, ko có dụng hay hiệu quả gì hết thì thui 'sorry đại ca, never mind your operations/method'. Tui muốn lấy 1 vd rằng:
    -cơ học lượng tử trúng ở mức vi mô
    - vĩ mô bằng nhiều cái vi mộ cộng lại
    - Suy ra: cơ học lượng tử trúng ở vĩ mô
    Hỏi rằng nói thế trúng ko? Tui nói trúng (true). Hỏi tui có muốn xài cơ học lượng tử giải thích thế giới vĩ mô hông? Tui nói hông. Mất công quá. Tui chỉ muốn 'giải thích' chuyển động của cái bàn, anh lại giải thích cho tui chuyển động của tỉ tỉ hạt cơ bản rùi cuối cùng bảo cho tui biết cái bàn nó chuyện động làm sao. Mất công quá. Tui chỉ muốn phân tích 1 câu tiếng Việt, anh chỉ cho tui cái cấu trúc bề sâu tùm lum. Mất công quá.

    ReplyDelete

  9. Cách đọc của tôi thì đấy không phải là mệnh đề chính, mà chỉ là ví dụ (duy nhất) của bài viết để minh họa cách hiểu về ngôn ngữ theo Chomsky. Mọi người chú ý hơn vì nó dẫn đến cuộc tranh luận với GS Hạo. Tuy nhiên, nếu không có tranh luận này thì như tôi sẽ chú ý hơn đến khía cạnh ngôn ngữ hiểu theo quan điểm thực chứng logic. Mà tôi thấy có vấn đề về logic đâu nhỉ? Cách nói "có ít nhất [...] có thể được coi là [...]" là để tránh việc quá bao quát mà không có bằng chứng số lượng thực tế thôi. Tôi có nghi ngờ tính khoa học của những luận điểm của GS Hạo về 70% câu tiếng Việt hợp với mô hình Đề Thuyết. Hai vấn đề là: Thứ nhất là tính lượng hóa, và thứ hai là sự so sánh "hợp lý".

    Theo tôi hiểu thì bác Tuệ nói về ngôn ngữ học với vai trò một khoa học nhận thức/nhận thức luận, từ đó dẫn đến phát kiến của Chomsky bằng lý luận thực chứng logic. Kết quả là người ta có thể hiểu thêm nhiều về chiều sâu nhận thức của con người; tức là nơi ứng dụng đáng kể nhất cũng chính là các khoa học nhận thức. Bác Hạo thực ra chỉ có thể phản đối cách ứng dụng máy móc vào việc giảng dậy và áp đặt tiếng Việt – tuy vậy đọc bài bác Hạo thường có ấn tượng là bác gạt bỏ hoàn toàn hệ thống mô hình Chomsky. Như thế là bỏ qua hoàn toàn những ứng dụng quan trọng nhất của nó (về nhận thức luận). Ở đây tôi thấy sự khác biệt chính về đối tượng nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu: Mối quan tâm khoa học của bài anh Tuệ là đào sâu về nhận thức của con người nói chung, và nhận thức của những người bản xứ nói một thứ tiếng nói riêng; còn mối quan tâm của bác Hạo là phân biệt ngôn ngữ thế nào cho đúng, chuẩn (xác định thế nào là chuẩn ở đây lại là một việc khác, mà tôi thấy khá mập mờ), từ đó ứng dụng trong giảng dậy, quy chuẩn ngôn ngữ.

    Như vậy, về mặt khoa học thực chứng thì tôi nhìn nhận là có sự đối lập giữa hai mô hình (về phương diện “model selection”), và tôi ủng hộ quan điểm của bác Tuệ. Vấn đề về mặt chuẩn tắc có lẽ khó kết luận hơn. Một phần vì bác Tuệ không đưa ra quan điểm chuẩn tắc nào cả (everything goes, miễn là hiểu), một phần khác những quan điểm chuẩn tắc của bác Hạo có khá nhiều nhưng không có cơ sở chắc chắn. Cơ sở cần thiết là: (i) Cần các quy định ngôn ngữ để đạt được tiêu chuẩn gì, (ii) Quy định thế nào thì đạt hiệu quả nhất (theo các tiêu chuẩn đó). Nếu tiêu chuẩn chỉ dừng ở mức “cha ông ta vẫn sử dụng tiếng Việt như vậy” thì tôi phản đối, vì như thế hạn chế hoàn toàn sự tiến hóa của cách sử dụng ngôn ngữ (ngôn ngữ hiện đại nào cũng đã tiến hóa rất nhiều), trong khi có thể có những tiến hóa mang lại phúc lợi lớn. Tôi cũng phản đối tiêu chuẩn kiểu “như thế mới là đẹp, là trong sáng”, vì đã là quan niệm về mỹ học thì không nên áp đặt một chút nào, đối với trẻ con cũng không mà người lớn thì càng không. Theo tôi, tiêu chuẩn phải xuất phát từ cơ sở, ví dụ “chức năng ngữ pháp là để giao tiếp, truyền tải chính xác suy nghĩ sâu”. Theo chức năng ấy, ngữ pháp cần có khuôn khổ giới hạn để không gây nhầm lẫn, khó hiểu. Ở đây khung Đề Thuyết có thể có tác dụng tốt: Vì đặc trưng của ngôn ngữ đơn âm tiết là có nhiều âm mang rất nhiều nghĩa, do đó việc quy định luôn đưa chủ thể của câu lên đầu có thể hạn chế các cách hiểu nhầm lẫn. Một tiêu chuẩn khác có thể là “ngữ pháp để thuyết phục người nghe” (giống như ngành rhetoric) – khi đó có thể khung Đề Thuyết cũng có tác dụng vì nhấn mạnh chủ đề. Tuy vậy, quy định này không cần thiết, bởi vì mỗi cá nhân có thể tự chọn ngữ pháp của mình mà vẫn trao đổi được với người khác (vấn đề chỉ là có thuyết phục được không). Một tiêu chuẩn nữa là “ngữ pháp để giúp giảng dậy ngôn ngữ cho nhanh, dễ hiểu”. Đây là điểm bác Hana có nói ở trên (kết hợp cả hai trường phái), mà tôi đoán là không có gì mâu thuẫn giữa hai mô hình nữa cả.

    ReplyDelete
  10. Trịnh Hữu Tuệ trước hình như cũng hay vào TL chiến đấu. Nhị Linh may ra nhớ nick của THT là gì.

    ReplyDelete
  11. Em thấy cái này cũng giống như phái Hoa Sơn cãi nhau xem Kiếm tông hơn hay Khí tông hơn. Luyện kiếm hay luyện khí, mục tiêu tối hậu vẫn là để đập chết đối phương. Ở đây cũng thế, các bác tranh luận nát nước cũng chỉ mong đạt đến mục tiêu tối hậu là để có được một thứ tiếng Việt hay hơn, đẹp hơn, chuẩn mực hơn.

    Vậy câu hỏi của em là: nếu bác Hạo viết văn Việt hay hơn bác Tuệ, thì có thể nói rằng phương pháp/lý thuyết của bác Hạo đúng hơn bác Tuệ không? Nếu không, thì em lại nêu ra câu hỏi thứ hai: Cố gắng chứng minh phương pháp/lý thuyết của mình đúng để làm gì, nếu cuối cùng văn mình viết không hay bằng văn người ta? Cũng như vụ Hoa Sơn. Anh chứng minh được Khí tông của anh là nhất, nhưng anh bị thằng Kiếm tông nó làm thịt, thì cái sự chứng minh ấy còn có nghĩa lý gì đâu?

    ReplyDelete
  12. tớ muốn giải thích lại để các bạn hiểu rõ: Chomsky không bảo mang mấy mô hình của ông ra dạy phân tích ngữ pháp cho trẻ con nên không thể nói học theo mô hình của ông thì không hiểu gì hết. Chomsky quan tâm đến năng lực ngôn ngữ của người bản ngữ và lý thuyết của ông có nhiều ứng dụng "tầm cỡ" hơn rất nhiều so với việc mang nó ra để dạy trẻ con phân tích ngữ pháp mẹ đẻ :p.

    Về mặt lý thuyết, quan điểm của Chomsky đã làm thay đổi hẳn hiểu biết của con người về con đường đắc thụ ngôn ngữ. Trước đây ng ta vẫn nghĩ chúng ta học ngôn ngữ bằng cách bắt chước (quan điểm của thuyết hành vi) và 1 loạt mô hình dạy học theo kiểu luyện tập bắt chước đã ra đời nhưng đã fail trong việc phát triển năng lực ngôn ngữ cho người học. Cho đến tận thời điểm này lý thuyết của Chomsky vẫn đc đánh giá cao trong language pedagogy và chưa ai dám nói nó không có giá trị thực tiễn.

    Về những ứng dụng thực tế, lý thuyết của Chomsky được sử dụng nhiều trong việc lập trình cho dịch máy. Để có được chương trình dịch máy tự động cần có một mô tả về siêu ngôn ngữ phổ quát và đó là đóng góp của Chomsky chứ ko phải của bất cứ trường phái nào khác.

    Tuy nhiên như đã nói vì Chomsky mới chỉ quan tâm đến tính hình thức (form) của ngôn ngữ mà chưa phải là chức năng (function) nên chương trình dịch máy ứng dụng lý thuyết của ông có nhiều cái bất cập, ví dụ dịch sai vì ko tính đến ngữ cảnh của lời nói.

    Ngôn ngữ là 1 HĐ xã hội. NP chức năng chỉ ra điều này và nó cũng làm thay đổi toàn bộ nhận thức của con ng về mục đích học ngôn ngữ. Học để có thể tương tác một cách phù hợp và để trao đổi thông tin/ dịch vụ chứ ko phải học để biết kiến thức ngữ pháp. Nhưng chính mô hình miêu tả ngữ pháp theo trường phái chức năng ko phải đã đc chấp nhận rộng rãi. Cụ thể là ở Úc, ngay chính nơi trường phái này đc phát triển, họ cũng ko dùng mô hình miêu tả NP của NP chức năng để dạy NP cho trẻ em.

    ReplyDelete
  13. BTW, nói về tính xác thực của ngôn ngữ, lời nói ko phải lúc nào cũng có tính xác thực. VD câu "Hôm nay trời mưa" có thể xác thực true-false nhưng những câu như "Hãy mở cửa ra", "Anh có thể chuyển cho tôi lọ tương ớt được ko" thì ko thể xác thực true-false. Điều này dẫn đến việc các nhà ngôn ngữ thay đổi các nhìn nhận ngôn ngữ và quan điểm logical positivism hiện nay đã lỗi thời trong NN học hiện đại.

    ReplyDelete
  14. Bác Hana ơi, cái bác vừa nói mới chỉ liên quan đến semantics mà?

    ReplyDelete
  15. Logic cua bac Tue dien ma toi thi e rang bac Le chua hieu the nao la logic. De nghi bac Le nen lam them vai cua Logic.
    Trong so cac bac nguoi VN ma em da co han hanh, may man duoc hoc hoi, noi chuyen, tiep xuc, biet, thi bac Tue dien la nguoi co logic va tu duy rational hon ca. Noi trang pho ra thi em thay bac Tue hon tat ca cac bac khac em da gap, quen, noi chuyen it nhat la 1 cai dau.

    ReplyDelete