Thursday, February 28, 2008

Lựa chọn thành công

Báo cáo “Lựa chọn thành công: bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai Việt Nam”

Bản báo cáo gửi Thủ Tướng Việt Nam của chương trình Việt Nam thuộc Đại học Harvard do nhóm tác giả David Dapice, Dwight Perkins, Nguyễn Xuân Thành, Vũ Thành Tự Anh, Huỳnh Thế Du, và Jonathan Pincus này rất hay. Báo cáo nêu ra các vấn đề trầm trọng hiện nay của kinh tế Việt Nam cũng như tương lai khá bi quan của kinh tế Việt Nam trong những năm tới.

Có thể đọc bài báo về bản báo cáo này của Trần Lệ Thùy trên báo Tuổi Trẻ.

VN phải "giảm sốc" cho nền kinh tế

Đọc thêm bài "Phải công phá thành trì “chủ nghĩa tư bản thân hữu”" của TS. Vũ Thành Tự Anh, một trong những tác giả báo cáo này cũng trên Tuổi Trẻ.

Xin trich một đoạn trong báo cáo nói về các tập đoàn kinh tế và chủ nghĩa tư bản thân hữu và một đoạn khác về lạm phát.

...

3. 1. Sụ hình thành của các tập đoàn kinh tế

Vào đầu những năm 1990, thất vọng trước kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước, chính phủ đã cố gắng tìm mọi cách nhằm làm cho khu vực này trở nên năng động hơn. Để thực hiện mục tiêu này, từ năm 1994, chính phủ đã tập hợp các DN công nghiệp nhà nước để hình thành nên các doanh nghiệp lớn hơn, gọi là các tổng công ty (TCT) 90 và 91 - tiền thân của các tập đoàn kinh tế nhà nước sau này. Ý đồ của chính sách này là với quy mô lớn hơn, các TCT có thể tận dụng lợi thế kinh tế theo quy mô, phát triển thương hiệu cũng như khai thác các lợi thế khác. Mô hình tham khảo cho các TCT là các keiretsu của Nhật Bản (như Mitsubishi, Mitsui v.v.) và chaebol của Hàn Quốc (như Sam sung, Daewoo, Kumho v.v.). Điều khác biệt quan trọng nhất giữa mô hình TCT của Việt Nam với mô hình chaehol của Hàn Quốc là, tất cả các chaebol đều buộc phải trở nên có tính cạnh tranh quốc tế trong vòng một vài năm, rồi sau đó phải xuất khẩu được một tỷ lệ nhất định sản lượng của mình. Mặc dù các chaebol này được nhà nước trợ cấp rất nhiều trong thời kỳ đầu, nhưng những khoản trợ cấp này sẽ giảm dần và biến mất hoàn toàn trong những năm sau đó. Ngược lại, các TCT của Việt Nam được xây dựng để thay thế hàng nhập khẩu, và do vậy luôn nhận được sự bảo hộ và trợ giúp của chính phủ, ngay cả khi chúng thua lỗ và không thể xuất khẩu. Nói một cách ngắn gọn, có thể coi các TCT như một hình thức kiểm soát và theo dõi các doanh nghiệp thành viên một cách hành chính. Mô hình TCT, vì vậy, rất gần gũi với hệ thống kế hoạch hóa tập trung trong đó các doanh nghiệp hầu như không có quyền tự chủ - vốn là một điều kiện tiên quyết để tạo nên một tập đoàn thực thụ.

Trong mấy năm trở lại đây, chính phủ ngày càng nhận thức rõ về sự thất bại của mô hình TCT và đi đến quyết định phải cải cách những TCT này. Một trong những chính sách chủ yếu để thực hiện nhiệm vụ này là kế hoạch xây dựng 19 tập đoàn nhà nước (TĐNN) - hậu duệ của 18 TCT 91 và TCT Kinh doanh và Đầu tư vốn Nhà nước (SCIC) - nắm giữ vị thế gần như độc quyền ở nhiều ngành công nghiệp nặng. Một nguyên nhân nữa, có lẽ còn quan trọng hơn, của việc hình thành các TĐNN vào thời điểm này là do sự kiện Việt Nam gia nhập WTO. Chính phủ lo ngại rằng các DNNN sẽ không thể cạnh tranh trong khuôn khổ “luật chơi” của WTO, và do vậy đã quyết định đẩy nhanh tiến độ thành lập các TĐNN để có thể cạnh tranh với các DN lớn của nước ngoài.

Có nhiều lý do để nghi ngờ rằng các TĐNN này sẽ không thể tự chuyển hóa mình để trở thành những DN cạnh tranh quốc tế. Nguyên nhân quan trọng nhất là cấu trúc của các tập đoàn này rất giống với các TCT trước đây, đồng thời những TCT này đã có 12 năm để chứng minh rằng chúng không thể thành công trong hoạt động xuất khẩu và cải thiện kết quả kinh doanh của mình. Trừ Sing-ga-po ra thì hình như không có nước nào khác trên thế giới đã từng thành công trong việc sử dụng DNNN như một phương tiện chủ yếu để xây dựng nên các DN cạnh tranh quốc tế. Có vẻ như Việt Nam, vì nhiều lý do khác nhau, sẽ không thể lặp lại thành tích này của Sing-ga-po.

Thế nhưng, ngay cả khi gạt sang bên một thực tế là các tập đoàn này đều là những DNNN, thì vẫn có nhiều lý do để nghi ngờ về khả năng các tập đoàn này một ngày nào đó sẽ trở thành những công ty lớn mạnh. Có thể nói những người ủng hộ mô hình TĐNN đã hiểu nhầm kinh nghiệm của các tập đoàn trên thế giới. Chẳng hạn như, việc dựng lên các tập đoàn lớn một cách duy ý chí không phải là một công thức phổ quát để hình thành nên những doanh nghiệp công nghiệp thành công trên thế giới, nhất là khi quyết định này không do các doanh nghiệp tư nhân thực hiện và được điều chỉnh bởi hệ thống luật pháp và thể chế tốt.

Để kết luận, chính sách hình thành nên các TĐNN về thực chất là một sự kết hợp giữ
a cơ chế “phòng thử” và mục tiêu tiếp tục duy trì kiểm soát của nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp. Nếu quả thực là như vậy thì những TĐNN này sẽ không thể giúp Việt Nam xây dựng nên một nền công nghiệp nặng có tính cạnh tranh.

3.2. Tập đoàn và sự xuất hiện của “chủ nghĩa tư bản thân hữu”

Đang tồn tại một mâu thuẫn cơ bản trong chính sách kinh tế của Việt Nam, đó là trong khi khu vực dân doanh trong nước và đầu tư nước ngoài là hai khu vực năng động nhất thì khu vực nhà nước lại luôn nhận được những khoản đầu tư và sự ưu ái của nhà nước. Mặc dù tinh thần của Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp thống nhất 2005 rất tiến bộ nhưng động năng này không biết có thể được tiếp tục duy trì hay không. Một số cuộc khảo sát gần đây cho thấy rằng tuy môi trường kinh doanh của Việt Nam đã có một số cải thiện nhất định nhưng vẫn còn chậm so với các nước cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam. Thứ bậc xếp hạng về năng lực cạnh tranh quốc gia cũng cho thấy những tín hiệu tương tự. Khả năng tiếp cận đất đai và vốn của Việt Nam đã được cải thiện, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số rào cản đáng kể như thiếu lao động có kỹ năng và nhà quản lý trung-cao cấp, chưa có hiệp hội doanh nghiệp độc lập mạnh, thời gian tuân thủ luật thuế và pháp luật nói chung còn rất cao, hệ thống luật phá sản, sáp nhập và mua lại doanh nghiệp còn kém hiệu lực.

Có vẻ như nền kinh tế Việt Nam ngày càng bị thống trị bởi các tập đoàn kinh tế nhà nước. Trong khi chính sách của Đảng và chủ trương của nhà nước khẳng định rằng các tập đoàn kinh tế phải tập trung vào những ngành chiến lược thì trên thực tế, những tập đoàn này hiện đang mở rộng hoạt động một cách nhanh chóng và đầy tham vọng sang nhiều lĩnh vực khác nhau như bất động sản, dịch vụ tài chính, ngân hàng, lữ hành, và cả phân phối điện thoại di động nữa.50 Hầu hết các tập đoàn này không tận dụng cơ hội từ việc Việt Nam gia nhập WTO đem lại để thâm nhập thị trường quốc tế. Trái lại, những tập đoàn này lại cố gắng tạo ra những công ty độc quyền trong nước để ngăn cản cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài. Một cuộc điều tra 200 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam mới đây do UNDP thực hiện khẳng định rằng nhiều công ty trong “Top 200″ của Việt Nam đang đầu cơ đất đai và chứng khoán mà thiếu tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi của mình. Nghiên cứu của UNDP còn cho thấy một xu hướng đáng lo ngại, đó là nhiều công ty dân doanh và cổ phần hóa ít chú tâm tới việc trở nên cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thay vào đó, những công ty này đang đua nhau tìm kiếm lợi nhuận tức thời trong khu vực bất động sản và tài chính. Chẳng hạn như cả REE - một công ty điện lạnh và Gemadept - một công ty vận chuyền đường biển đều đang đầu tư một cách mạnh mẽ vào nhiều dự án bất động sản. 51

Tương tự như vậy, một số tập đoàn kinh tế nhà nước như Petro Việt Nam, Vinashin, và EVN đang thành lập hay đoạt quyền kiểm soát ở một số ngân hàng. Sau đó, các tập đoàn này sẽ sử dụng ngân hàng để tài trợ cho các kế hoạch mở rộng lãnh địa của mình. Nếu như không có hệ thống kiểm soát đủ mạnh và khả năng phân tán rủi ro hiệu quả thì chắc chắn cấu trúc này sẽ dẫn tới những khoản vay và đầu tư quá mức của các thành viên tập đoàn. Các tập đoàn nhà nước đang lợi dụng sự bảo lãnh công khai hay ngầm của nhà nước để thực hiện các khoản vay lớn trên thị trường quốc tế. Tất cả những động thái này đều là những thủ thuật cổ điển mà các keiretsu của Nhật Bản và chaehol của Hàn Quốc (giờ đều đã mất hình ảnh vàng son thuở nào) từng thực hiện. Việc các thành viên của tập đoàn vay nợ và sở hữu chéo lẫn nhau, cùng với các khoản vay nước ngoài không được phòng vệ là những nguyên nhân chính dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Á và Đông Nam Á năm 1997.

Trong bài viết này và trong các phân tích về nền kinh tế Việt Nam chúng ta thường thấy sự phân biệt giữa 3 thành phần kinh tế: dân doanh, nhà nước, và đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, ranh giới trên thực tế của ba loại hình doanh nghiệp này không đơn giản và rành mạch như vậy. Hiện nay đã và đang xuất hiện một lớp doanh nghiệp mới mang danh cổ phần hóa nhưng thực chất đã được tư nhân hóa một cách nội bộ và qua đó biến tài sản nhà nước thành sở hữu riêng của mình. Đồng thời cũng xuất hiện một lớp doanh nghiệp khác, về hình thức là tư nhân, nhưng trên thực tế có mối quan hệ chặt chẽ và gần gũi với những người có thẩm quyền trong hệ thống nhà nước và lợi dụng mối quan hệ này để trục lợi thông qua việc đoạt được những hợp đồng béo bở hay những khoản tín dụng mềm.

Trong quá trình mở rộng phát triển của nhiều tập đoàn hiện nay cũng đã xuất hiện một số biểu hiện đáng báo động. Một “kịch bản” phổ biến khi mở rộng như vậy được miêu tả như sau. Tập đoàn nhà nước thành lập một công ty con, trong đó ban giám đốc của tập đoàn (còn gọi là công ty mẹ) và của công ty con nắm giữ một lượng cổ phiếu đáng kể của công ty con mới này. Một phần tài sản của tập đoàn (đất đai chẳng hạn) được chuyển cho công ty con dưới hình thức đầu tư hay góp vốn ban đầu. Khi cổ phiếu của công ty mới này được bán trên thị trường OTC hay trên thị trường chứng khoán thì những người chủ sở hữu của chúng sẽ hưởng lợi nhuận siêu ngạch từ việc ăn chênh lệch giá cổ phiếu (do khi cổ phần hóa doanh nghiệp bị định giá thấp hơn giá trị thị trường như trong trường hợp khách sạn Phú Gia Intimex). Trong thế giới mờ ám của những giao dịch nội gián như thế này, việc phân loại các nhóm sở hữu trở nên khó khăn. Những doanh nghiệp tư nhâ
n giành được những “lô đất vàng” ở Hà Nội hay TP. Hồ Chí Minh chắc chắn phải có mối quan hệ mật thiết với một số quan chức nhà nước. Về bản chất, quá trình này không khác nhiều lắm so với quá trình bòn rút tài sản công thông qua tư nhân hóa đại trà ở Nga vào đầu những năm 1990, mặc dù ở Việt Nam, quá trình này xảy ra với tốc độ chậm hơn và mức tập trung của cải vào trong tay một thiểu số thấp hơn.

Một kịch bản thứ hai nhưng không kém phần đáng lo ngại là một số công ty con (đặc biệt là những công ty tài chính) mặc dù không thực sự có tài sản gì ngoài nhãn hiệu được thừa kế từ tập đoàn mẹ nhưng vẫn được IPO với những mức giá khổng lồ. Khi ấy, những nhà đầu tư nhỏ lẻ (nhiều người trong số họ đầu tư bằng những khoản tiết kiệm dành dụm cả đời) do thiếu thông tin vẫn cứ lao vào để cố mua bằng được chút ít cổ phiếu với giá thị trường giờ đã trở nên cao ngất, cao hơn nhiều lần so với giá trị danh nghĩa ban đầu. Kết quả là tiền của những nhà đầu tư nhỏ, thiếu thông tin và hiểu biết đã bị chuyển sang túi của những “đại gia”, đầy đủ thông tin nội bộ và mua được cổ phiếu ngay từ lần phát hành đầu tiên. 52 Những hoạt động như thế này không thể bền vững, và sớm hay muộn thị trường cũng sẽ điều chỉnh. Hậu quả khi ấy không chỉ là nhiều nhà đầu tư nhỏ, thiếu thông tin mất tiền, mà họ còn mất luôn cả niềm tin vào hoạt động quản trị của doanh nghiệp và chính sách của nhà nước.
....


4.1. Sự xuất hiện lại của lạm phát

Kể từ khi kiềm chế được lạm phát phi mã vào giữa những năm 1980, Việt Nam đã thành công trong việc đạt được một tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao và ổn định. Cùng với quá trình phát triển và hội nhập của nền kinh tế, việc duy trì một môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh trở nên khó khăn hơn nhiều. Sự lúng túng của chính phủ trong việc đối phó với lạm phát thời gian qua chứng tỏ các nhà điều hành kinh tế vĩ mô của Việt Nam chưa sẵn sàng, hoặc chưa được giao những công cụ chính sách và kỹ thuật cần thiết. Mặc dù Việt Nam có những nhà kinh tế học được đào tạo bài bản ở trình độ cao, nhưng sự thiếu vắng môi trường thảo luận, phân tích chính sách, sự chậm chạp của nhiều viện nghiên cứu và trường đại học trong việc đáp ứng nhu cầu của hoạt động ra chính sách là những trở ngại thực sự cho nỗ lực sử dụng năng lực có tính kỹ thuật để hoạch định chính sách. Kết quả là khoảng cách giữa nhu cầu cần phải có những chính sách tinh vi để điều hành nền kinh tế nay đã trở nên phức tạp hơn trước rất nhiều và năng lực thực sự của các nhà hoạch định chính sách ngày càng bị nới rộng.

Lạm phát giờ đây đã trở thành mối lo ngại của cả người dân lẫn chính phủ, một phần là do mức lạm phát thực tế cao hơn nhiều so với số liệu công bố chính thức. Chi tiêu trong nước đã tăng mạnh khi giá trị xuất khẩu dầu lửa tăng cao ngất, các khoản viện trợ phát triển chính thức, FDI, vay nợ và kiều hối vẫn tiếp tục ùn ùn đổ vào Việt Nam. Kể từ năm 2003, doanh số bán lẻ danh nghĩa của Việt Nam liên tục tăng với tốc độ trên 20% mỗi năm. Đầu tư tăng còn nhanh hơn nữa, trong khi lượng cung thực (đo bằng sản lượng thực cộng thâm hụt thương mại thực) chỉ tăng dưới 10% một năm. Nếu như chi tiêu tăng hơn 20%, trong khi lượng cung thực tăng chưa đến nửa số đó, thì chênh lệch giữa hai đại lượng phải là lạm phát. 54 Mặc dù số liệu lạm phát công bố chính thức thấp hơn do dựa vào giá của một giỏ hàng hóa nhất định, nhưng từ những tính toán trên có thể khẳng định rằng trên thực tế, lạm phát đã lên tới mức hai con số, và đã duy trì ở mức hai con số trong mấy năm trở lại đây.

Đây không phải là một điều đáng ngạc nhiên. Tốc độ tăng cung tiền liên tục ở mức trên dưới 25% mỗi năm kể từ năm 2003, và tín dụng nội địa cũng tăng trên 35%. Trong khi nhập khẩu tăng đột biến trong mấy năm gần đây để đáp ứng với lượng cầu nội địa tăng thì đối với một số hàng hóa như khách sạn, văn phòng, điện, lao động có kỹ năng - hay nói chung là những hàng hóa chủ yếu được sản xuất trong nước - không thể tăng một cách tương ứng. Kết quả là giá của những hàng hóa này phải tăng theo tốc độ tăng cung tiền. Thế nhưng tại sao tốc độ tăng trưởng của Việt Nam lại chỉ tăng có 7-8% trong khi đầu tư hàng năm của nền kinh tế chiếm tới 35% GDP? Lưu ý là Đài Loan đã từng tăng trưởng tới 10% liên tục trong 18 năm với một lượng đầu tư khiêm tốn hơn nhiều, chỉ chiếm khoảng 1/4 GDP mà thôi.

Chính phủ Việt Nam đã quyết định tăng cung tiền nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian dài. Tuy nhiên, khi sự mất cân đối giữa tốc độ tăng cung tiền và tốc độ tăng trưởng GDP trở nên ngày một lớn thì sức ép lạm phát bắt đầu xuất hiện. Như được minh họa trong Hình 8, trong hai năm 2005 và 2006, GDP của Việt Nam tăng 17%, trong khi đó M2 (gồm tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi ngân hàng) tăng tới 73%. Trái lại, trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 22% trong khi M2 chỉ tăng có 36%. Chênh lệch giữa tăng trưởng cung tiền và GDP ở Thái-lan còn thấp hơn nữa. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thấp hơn của Trung Quốc nhưng tốc độ tăng cung tiền lại cao gần gấp đôi. Kết quả là trong khi chỉ số giá tiêu dùng ở Trung Quốc trong năm 2007 chỉ khoảng 6,5% thì ở Việt Nam lên tới 12,6%.

Tại sao cung tiền của Việt Nam lại tăng nhanh nhÆ° vậy? Má»™t nguyên nhân chính là do nhịp Ä‘á»™ tăng chi tiêu của nhà nÆ°á»›c. Tổng chi tiêu của nhà nÆ°á»›c trong năm 2006 là 321 nghìn tá»· đồng, tăng 221.8 nghìn tá»· đồng (hay 45%) so vá»›i năm 2004. NhÆ° vậy, tốc Ä‘á»™ tăng chi tiêu hàng năm của nhà nÆ°á»›c trong giai Ä‘oạn 2004-2006 là 20,3% năm (tÆ°Æ¡ng Ä‘Æ°Æ¡ng vá»›i tốc Ä‘á»™ tăng trưởng doanh số bán lẻ). CÅ©ng trong giai Ä‘oạn này, thu ngân sách tăng chủ yá
º¿u không phải từ nguồn thu ná»™i địa mà là từ dầu mỏ, nợ và viện trợ nÆ°á»›c ngoài. Thu ná»™i địa trong năm 2004 chỉ đạt 119 nghìn tá»·, và trong năm 2006 là 190 nghìn tá»·, tăng có 71 nghìn tá»·. Trong khi đó, chi tiêu của nhà nÆ°á»›c tăng 131 nghìn tá»·, từ 190 lên tá»›i 321 nghìn tá»·, tức là gần gấp đôi mức tăng thu ná»™i địa. Khi chi tiêu của nhà nÆ°á»›c tăng nhanh hÆ¡n nhiều so vá»›i các nguồn thu ngoài dầu mỏ (ngay cả khi nguồn thu tăng này đến từ dầu mỏ hay viện trợ) thì những khoản chi tiêu này sẽ làm tăng tổng cầu. Thế nhÆ°ng nếu các khoản chi tiêu này lại không được sá»­ dụng má»™t cách hiệu quả, chỉ đóng góp được chút đỉnh cho sản lượng (tức là không làm cho tổng cung tăng má»™t cách tÆ°Æ¡ng ứng) thì tất yếu sẽ dẫn tá»›i lạm phát.

Một số quan chức của chính phủ đã đổ lỗi cho các nhân tố khách quan như giá dầu, sắt thép, và thực phẩm thế giới tăng là thủ phạm của lạm phát. Đúng là các cú sốc về phía cung là một trong những nguồn gây nên lạm phát ở Việt Nam. Cho đến năm 2004, người tiêu dùng Việt Nam nói chung, và đặc biệt là người nghèo, đã được lợi do giá gạo thấp. Tuy nhiên, trong mấy năm trở lại đây, bên cạnh việc giá gạo tăng thì giá xăng dầu và giá phân hóa học cũng đều tăng cao. Những cú sốc toàn cầu này không chỉ ảnh hưởng riêng tới Việt Nam, mà còn tác động tới các quốc gia Châu Á khác, thế nhưng mức độ lạm phát ở các nước này lại thấp hơn ở Việt Nam rất nhiều (Hình 9). Điều này có nghĩa là, mặc dù việc giá thế giới tăng là một trong những nguyên nhân gây lạm phát ở Việt Nam, nhưng nó không phải gốc rễ của vấn đề. Nếu cung tiền tăng chậm hơn thì chi tiêu của nhà nước cũng sẽ phải tăng chậm lại. Nếu giá xăng dầu tăng, chi tiêu của người tiêu dùng cho xăng dầu có thể sẽ tăng lên, và do vậy, họ sẽ phải cắt giảm tiêu dùng đối với các sản phẩm khác và làm cho giá của chúng giảm xuống. Việc mức lạm phát ở Thái-lan thấp hơn rất nhiều so với Việt Nam, trong khi trên thực tế, nền kinh tế Thái-lan tiêu thụ nhiều xăng dầu hơn Việt Nam là một minh chứng cho điều này.

20 comments:

  1. Nhận định "Ngược lại, các TCT của Việt Nam được xây dựng để thay thế hàng nhập khẩu" là có phần chủ quan và không chính xác. 18 Tổng công ty 91 của Việt Nam (các TCT lớn nhất) có thể chia làm hai loại:
    1. Dệt may, dầu khí, Vinashin (đóng tàu), lương thực, cao su, cà phê, than (và một phần của hàng không, hàng hải) là các TCT tập trung vào xuất khẩu
    2. Điện lực, BC viễn thông, xi măng, thép, giấy, thuốc lá, hóa chất, đường sắt mới chủ yếu hoạt động nội địa

    Như vậy có tới 10 trên 18 TCT nhà nước đang cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy vậy phần lớn trong số này có sản phẩm là nông sản và tài nguyên thiên nhiên với sức cạnh tranh không cao và giá trị gia tăng thấp.

    Tập đoàn kinh tế có vẻ là một thứ "bình mới rượu cũ". Em có tham gia 1 dự án tư vấn WB cho VN về cải cách doanh nghiệp NN. Khuyến nghị khối thứ nhưng hình như CP VN chả áp dụng được bao nhiêu.

    ReplyDelete
  2. Xăng dầu dĩ nhiên cũng là một yếu tố nhưng được người ta nhấn mạnh như một yếu tố để đổ tội cho việc lạm phát. Cũng giống như thiên tai ở miền Trung vậy. Các bạn làm giao thông ở miền Trung thường kêu than do lũ lụt hạn hán nên đường sá nhanh hư hỏng, nhưng thực tế các bạn ấy lại ăn xi măng sắt thép khi xây dựng chán ra rồi đổ tội cho ông trời phá hoại. Thiên hạ cứ tưởng ông trời gây ra hết thật. Ông trời ở đâu không biết chứ ông trời ở miền Trung rất oan khuất.

    Tớ có cảm tưởng như kinh tế VN, sản xuất trực tiếp thì ít nhưng lại chú trọng kiếm lợi nhuận từ những thứ bơm thổi như bất động sản hay chứng khoán. Đến một ngưỡng nào đó là vỡ mồm cả lũ ngay.

    Chuyện giá dầu thô vs. giá xăng thì không là quan hệ tuyến tính. Các quốc gia có nhà máy lọc dầu bao giờ cũng có một nguồn dự trữ dầu thô nhất định để bảo đảm cho an ninh năng lượng, bởi vậy trong trường hợp dầu thô đột ngột lên giá, họ vẫn có biện pháp để kìm tối đa việc tăng giá, hòng cạnh tranh với các đối thủ khác đồng thời vẫn kiếm được lợi nhuận. VN thiếu cả hai yếu tố trên, vì VN chưa có nhà máy lọc dầu trong khi nhà nước lại độc quyền kinh doanh xăng dầu.

    ReplyDelete
  3. Trong báo cáo có đoạn viết: "Thế nhưng tại sao tốc độ tăng trưởng của Việt Nam lại chỉ tăng có 7-8% trong khi đầu tư hàng năm của nền kinh tế chiếm tới 35% GDP? Lưu ý là Đài Loan đã từng tăng trưởng tới 10% liên tục trong 18 năm với một lượng đầu tư khiêm tốn hơn nhiều, chỉ chiếm khoảng 1/4 GDP mà thôi".
    Theo thiển ý của J, việc so sánh tốc độ tăng trưởng với tỷ lệ đầu tư có vẻ không ổn lắm. Bởi nếu so sánh với các nền kinh tế phát triển khác, như Pháp chẳng hạn thì tốc độ tăng trưởng hàng năm chật vật lên xuống ở ngưỡng 1% trong khi tỷ lệ đầu tư chắc rằng cũng không nhỏ.
    J nghĩ có lẽ nên sử dụng hệ số Icor về chất lượng đầu tư sẽ hợp lý hơn (ICOR của VN là 4,8 nghĩa là đầu tư 4,8 đồng mới thu lại một đồng.)

    ReplyDelete
  4. Đang đọc đến trang 50 của bản báo cáo.
    Hóa ra ngay sau phần 4.1, các tác giả có đề cập đến hệ số Icor trong phần 4.2. Xin đính chính lại comment trên là ICOR của VN là 4,4.
    Đọc được hơn nửa bản báo cáo thấy nhiều chỗ quen quen, nghĩ lại mới nhớ ra là mấy hôm gần đây, trên báo VN có trích dẫn nội dung bản báo cáo này trong các bài phân tích kinh tế. Có trích nguồn không thì J không nhớ. Sẽ check lại.
    Bác nào làm ơn giải thích hộ J chữ "thân hữu " trong "chủ nghĩa tư bản thân hữu " là gì với ạ. Thanks.

    ReplyDelete
  5. @Juriste: theo mô hình Harrod-Domar, [ICOR = (Đầu tư) / (tăng GDP)] và [tỷ lệ tăng trưởng = (tỷ lệ đầu tư trên GDP) / ICOR] -> 2 cách so sánh ở trên chính là một về bản chất thôi.

    Đúng là so sánh 2 nước ở trình độ phát triển khác nhau là không phù hợp (Pháp & VN) nhưng Đài Loan ở thời kỳ 1961-1980 là tương đương VN hiện nay. ICOR của VN hiện là 4.4, cao hơn rất nhiều so với ĐL thời đó và các nước khác, chỉ thấp hơn Malaysia với ICOR là 4.6 (1981-1995).

    Chủ nghĩa TB thân hữu là "crony capitalism" (xem định nghĩa trong Wiki), nôm na là cấu kết anh em bạn bè làm ăn với nhau để làm giàu. Ví dụ rất đơn giản là (giả sử) em Nguyễn Thanh Phượng xinh đẹp con gái Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lên kêu với bố là Quỹ Đầu tư Bản Việt (do Phượng làm chủ tịch, có gần trăm tỷ) dạo này làm ăn kém quá do VnIndex trượt dốc. Thủ tướng bèn ra ra lệnh cho Bộ Tài chính bơm 9000 tỷ vào thị trường chứng khoán, Bản Việt sẽ bán hết cổ phiếu lúc lên giá và kiếm được khoản kha khá.
    Ví dụ khác là gia đình bác Chủ tịch HĐQT Tổng công ty XD miền Trung mới bị bắt hôm qua: bố làm chủ tịch, các con cháu, em... làm giám đốc hay phụ trách các đơn vị thành viên, rồi thi nhau móc ruột các dự án công trình. Ngày trước anh Bùi Tiến Dũng cho công ty của Mậu Thôn (là sân sau) ký hợp đồng dựng rạp kết hoa cho lễ khánh thành các công trình cầu đường của PMU18. Giá trị HĐ tới 4-5 tỷ trong khi chi phí thật chỉ vài trăm triệu (tính cả tiền thuê người mẫu chân dài lượn đi luợn lại)...

    ReplyDelete
  6. Blog bác AnNguyen có bài viết rất hay về việc giải quyết lạm phát một cách lâu dài:
    http://360.yahoo.com/profile-qafManE_fLPctJpGQ_ZAMan8shCZTg--?cq=1

    ReplyDelete
  7. Theo thiển ý của em "thân hữu" ở đây là "thân nhà nước" tức là nhà nước bao tất dù cái loại tư bản đó có làm ăn bê bết đến đâu đi nữa thì trợ giá bù lỗ vẫn dc rót vào đều đều => công thức là giá trị thặng dư= bóc lột nhân dân :D, nếu sai xin các bác sửa cho

    ReplyDelete
  8. Thấy cái tên Jonathan Pincus (JP) trong nhóm tác giả là quen quen em phải tranh thủ “bỉ” một số anh giai mới được :p

    Bác JP trước là giáo sư kinh tế University of London, năm 2004 sang VN làm Kinh tế trưởng cho Chương trình phát triển LHQ UNDP ở Hà Nội. JP đã kế tục thành công style của Jordan Ryan là giám đốc UNDP giai đoạn trước 2005. Chả hiểu thế nào mà Jordan Ryan khoái nhóm CT VN của Harvard của anh David Dapice từ quãng năm 2001, liên tục mời nhóm này nghiên cứu các vấn đề phát triển kinh tế VN. Đọc các báo cáo của họ thấy ngay kiểu "cú nhòm giường bệnh" với Việt Nam rồi hehe. Các bác này đã và đang chẩn đoán ra một đống các bệnh tật (khó chữa) của nền kinh tế đang tự hào là số 2 của châu Á. Bản thân Jordan, vừa hết nhiệm kỳ và quay về Mỹ đã viết 1 bài trên tờ YaleGlobal của ĐH Yale (là trường cũ của đ.c) phê phán nhẹ nhàng VN ở một số điểm. Bài này tự dưng nổi tiếng vì đã được VietnamNet dịch rất bố láo vào đầu năm 2006. Báo cáo "Lựa chọn thành công" lần này cũng được UNDP tài trợ.

    Ở một vị trí tương đương nhưng quyền lực hơn hẳn so với JP là anh Martin Rama, kinh tế trưởng của World Bank Vietnam. Martin Rama là người gốc Uruguay, nói tiếng Pháp hay hơn tiếng Anh vì có bằng PhD ở ĐH Paris. Anh này sang Hà Nội năm 2002. Kể từ đó các báo cáo của WB về kinh tế Việt Nam chủ yếu là ca ngợi và tung hô, về 1 mặt nào đó chả khác gì Nghị quyết của Đảng. Về mặt nguồn lực tài chính, WB mạnh hơn UNDP nhiều và tiếng nói có trọng lượng hơn đối với CP VN, thế mà đ.c Rama gần như bỏ lơ các vấn đề kinh tế vĩ mô mà chú trọng vào các dự án cụ thể để có "thành tích". BC Lựa chọn thành công cũng đã phê phán nặng nề World Bank vì các chính sách "hoang tưởng" về sự hóa rồng dễ dàng của Việt Nam, coi Việt Nam là "triệu chứng cục cưng" để WB thủ dâm tinh thần về sự thành công của mình. Nếu bây giờ kinh tế VN có gặp suy thoái hay khủng hoảng thì "công đóng góp" của đ.c Rama là không nhỏ.

    Em tự dưng ghét các kinh tế gia người Pháp hay học ở Pháp, kiểu như đ.c Rama này. Phở quá mức (sorry các bác học ở Pháp, ở đây là nói về một chiên gia kinh tế và suy rộng ra thôi). Các bác người Mỹ, Anh thẳng thắn hơn nhiều. Bạn tốt phải là người biết chê trách, phê phán các nhược điểm và lỗi lầm của ta phải không? Mặc dù lời phê phán có thể không đúng 100% (David Dapice của nhóm Harvard VN đã sai lầm vài lần - ví dụ năm 2005 dự báo là FDI vào Việt Nam sẽ gặp trục trặc lớn trong khi thực tế năm 2007 Việt Nam lập kỷ lục về vốn đầu tư nước ngoài 20 tỷ US$ cao nhất châu Á tính theo đầu người) nhưng nếu lắng nghe nó thì VN đã và sẽ có thể tránh được những sai lầm chết người trong phát triển.

    Sau này đừng dại mà thuê ai học ở Pháp, những người thích nhận huân chương hữu nghị hơn là nói thẳng, làm chiên gia kinh tế cho VN nhé :P

    ReplyDelete
  9. Bạn Fortunate V+ quả là biết nhiều chuyện :D. Công nhận không ngờ là bài này chửi World Bank kinh thế. World Bank nói chung vẫn có cái tật là ve vãn các nước có chút thành công nhất là trong xóa đói giảm nghèo và ít chú ý tới các mất cân bằng kinh tế vĩ mô. Hơn nữa trong vòng vài chục năm nay, WB cũng bị phê phán nặng nề và vì thế luôn có nhu cầu phải tìm cho ra vài tấm gương điển hình tiên tiến để ca ngợi nó lên mây, nhằm giải ngân dự án và kiếm điểm thành tích cho dễ. Trong bài này bác Davice so sánh thái độ của WB với Việt Nam tương tự như trước đây với Indonesia trước khi Suharto đổ.
    Bản báo cáo này thật sự có ý nghĩa vì nó là tài liệu đầy đủ và thẳng thắn nhất từ trước tới nay về những điểm yếu của kinh tế Việt Nam, trái ngược với đa số các đánh giá trước đây cả ở trong nước và nước ngoài. Việc các giải pháp nêu ra chỉ có tính định hướng là có thể hiểu được vì dù sao đây cũng không phải là nghiên cứu chuyên sâu về một mảng nào đó mà là một nghiên cứu tổng hợp về những khó khăn của kinh tế Việt Nam. Những mất cân bằng này thực ra có tiềm tàng từ trước nhưng tới nay bắt đầu bộc lộ rõ qua tình trạng lạm phát (và ứng phó với lạm phát), những xáo trộn trên thị trường chứng khoán, sự bối rối trong chính sách đối với các TCT và nay là các tập đoàn nhà nước, các vấn đề trầm trọng trong giáo dục, đầu tư kém hiệu quả và lãng phí...
    Nếu chính phủ không có những giải pháp chắc chắn thì nguy cơ bất ổn kinh tế là rất lớn, có thể còn tồi tệ hơn Indonesia khi xưa (cho dù chắc không có ông nào giàu và khống chế được nền kinh tế như gia đình nhà Suharto). Trên thị trường chứng khoán thì đang diễn ra tình trạng như nước Nga đầu những năm 90 với việc một số ít những người có quan hệ kiếm được rất nhiều tiền- rất nhiều người trở thành triệu phú chỉ trong một thời gian rất ngắn. Ở Nga sau đó là 10 năm nền kinh tế lao đao với tăng trưởng GDP còn âm và tình trạng nghèo khổ gia tăng.

    ReplyDelete
  10. @ Fortunate: Ối giời ơi, bác phang cho dân học ở Pháp một câu như vậy thì tội người ta quá! Đc Rama chắc cólợi ích riêng tư gì mới làm như vậy thôi chứ không phải tất cả đâu. Mấy ông chuyên gia Pháp lịch sự nhưng cũng trung thực ra phết.
    Cám ơn các bác đã giảng giải giúp J. J thấy giải thích chữ thân hữu theo nghĩa "kết cấu anh em bạn bè" như của bác Fortunate hợp lý hơn theo nghĩa "thân nhà nước". Chữ Hữu ở đây có lẽ là chữ hữu trong "bằng hữu".

    ReplyDelete
  11. Pháp dạo gần đây có kinh tế gia à?

    ;-)

    ReplyDelete
  12. @Fortunate V: Hôm trước bác Pincus bảo chính phủ VN đang hơi quá vui vẻ với thành công nên nhóm Havard phải làm động tác "wake up", giống như người trong nhà nói thật với nhau. Còn nhóm khác thì như party khách sáo, toàn khen nhau.

    ReplyDelete
  13. Hai lãnh đạo WTO và MFI hiện nay là người Pháp.
    Nhưng em cũng công nhận là người Pháp nói hay hơn làm.

    ReplyDelete
  14. @Juriste: Đùa tí thôi bác. ;-) Em cứ nghĩ kinh tế gia với lãnh đạo gia là hai loại khác nhau. Ngay cả đồng chí Greenspan có phải là kinh tế gia không thì cũng (đã) có nhiều bàn cãi (không phải từ em đâu) ;)

    Chúc các bác cuối tuần vui vẻ.

    ReplyDelete
  15. Đúng rồi đấy ạ, cần phải bỉ bọn được đào tạo ở Pháp một cách đồng loạt và nặng nề các bác ạ.

    ReplyDelete
  16. Thưa các bác, kinh tế gia có dăm bảy loại, đâu cần phải có giải Nobel. Cứ học về kinh tế thì được gọi là "economist" hết. Bác GS Pincus có chức danh là "Senior Country Economist" của UNDP VN, còn em tuy chỉ tốt nghiệp hệ trung cấp kinh tế Đại học Nông lâm Thái Nguyên nhưng cũng là kinh tế gia: "Junior economist, phòng kinh tế, UBND huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu".

    @grass: em chưa gặp Pincus lần nào, bác Thùy được tiếp xúc trực tiếp với những người đó hẳn có nhiều thông tin thú vị. Bài báo của grass trên Tuổi Trẻ hình như là bài duy nhất ở Việt Nam nói về cái báo cáo nhạy cảm này?

    @Nhị Linh: bác đừng nóng hehe. Hình như friendlist của bác Linh không ít người học ở Pháp. Em chỉ nói về các chiên gia kinh tế thôi, còn các ngành văn học, luật, chính trị, ngoại giao, y tế... của Pháp vẫn là hàng đầu thế giới mà :) Nhân đây em cũng muốn bỉ các anh giai trong Chính phủ VN do tội điều hành kinh tế yếu kém. Nhưng nhìn đi nhìn lại trong nội các CP chả có anh nào học ở Pháp cả, mà lại thấy 3 anh học ở Mỹ và Anh về là anh Phát Bộ trưởng nông nghiệp và phát triển lung tung, 2 phó thủ tướng Nhân và Hải. Anh Phát và a. Nhân học ở Mỹ, anh Hải học ở Ai Len (coi như là Anh).

    Tội lỗi của aNhân trong nền giáo dục be bét của VN thì đã rõ rồi, không nói nữa. Trong đợt rét kinh khủng ở miền bắc vừa rồi, mạ miếc lăn quay và trâu bò của nông dân đổ hàng loạt. Thế mà đến tận ra Tết, sau khi nâng cốc chúc tụng vui vẻ, bộ nông nghiệp mới tổ chức được cái hội thảo "Trâu bò chết rét: nguyên nhân, thực trạng và giải pháp". Nghe đâu 7 nhóm giải pháp quyết liệt sẽ được trình CP phê duyệt trong tháng tới, tức là khi cả đàn trâu bò (tài sản quý giá của nông dân nghèo) đã được giỗ xong 49 ngày. Anh Hải cũng cần phải bỉ nặng nề với tư cách là phó thủ tướng phụ trách kinh tế ngành (công thương, nông nghiệp, xây dựng, giao thông). Anh ấy vừa chỉ đạo Bộ Công thương tăng giá xăng dầu, khác nào đổ xăng vào lửa trong thời điểm lạm phát tăng cao hiện nay. Khả năng tới tháng 6 lạm phát lên tới 2 chữ số đã rõ mồn một. Đúng là "giá đưa cây cải về trời, cho lương ở lại chịu đời đắng cay".

    Hai anh chịu trách nhiệm chính về kinh tế trong CP là anh Dũng và anh Sinh Hùng (phụ trách Bộ KHĐT, tài chính, ngân hàng NN), thì nghe nói không học ở nước nào cả. Như vậy Pháp hay Mỹ thì cũng thế thôi :P

    ReplyDelete
  17. Dạ, nếu như em nhớ không nhầm thì ở Bộ Tư Pháp có bác Hà Hùng Cường làm TS ở Pháp đấy ạ.

    ReplyDelete
  18. Vậy em cũng là kinh tế gia của cả nhà em rùi, chuyên về chống thâm thủng ngân sách, nhập siêu, lạm phát và đặc biệt là giảm nợ tín dụng. Nhưng em chỉ là cố vấn hai chân thôi, không được quyền quyết định gì hết. ;-(

    Nobel cũng có dăm bảy loại. Mặc dầu Nobel Kinh tế thì không đa dạng (chân) bằng Nobel Văn chương và Hoà Bình.

    Bác đừng động chạm mấy bác có Đít-lôm Ăn-lo Xác-xơ nhé. BBC và tư bản truyền thông gọi là "các nhà kỹ trị" mới đấy. Niềm hy vọng của nông dân chân lấm mông sình các em đấy. Ở "quê ta lắm bà già nhảy điệu lăm-ba-đa" ai làm lãnh (cảm) đạo mà biết lói tiếng Anh là em phong "nhà kỹ trị" hết.

    Biết tiếng Pháp thì không nhé, bác Nhị Linh thân mến. Chưa thấm nhuần tư tưởng Friedman à? Hèn nào thấy nhắc tới Ô-liu hoài mà không có Lết-xệt. ;-)

    ReplyDelete
  19. Theo em một trong những nhà nhà kỹ trị đầu tiên của nước ta là Trần Thủ Độ. "Nhổ cỏ phải nhổ cho tận gốc" không phải kỹ trị là gì hả các bác.

    ;-)

    ReplyDelete